Cập nhật: 21/11/2019 09:21:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Hiện nay, do thời tiết thay đổi bất thường, cộng với dịch bệnh tả lợn Châu Phi vẫn đang diễn biến phức tạp làm giảm sức đề kháng của đàn lợn. Từ đây mầm bệnh trên đàn lợn có điều kiện phát sinh, phát triển và nguy cơ bùng phát dịch. Để chủ động phòng, chống dịch bệnh trên đàn lợn, kỹ sư Nguyễn Thị Hậu, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh hướng dẫn bà con chăn nuôi cách nhận biết bệnh Tai xanh ở lợn và các biện pháp phòng chng.

Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn (PRRS), còn gọi là Bệnh Tai xanh, là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cấp tính do virut gây ra. Bệnh có tính chất lây lan nhanh và gây chết nhiều lợn khi ghép hoặc kế phát các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác. Đặc trưng của bệnh là gây sảy thai, thai chết lưu ở lợn nái chửa, lợn ốm có triệu chứng điển hình sốt cao trên 40°- 41oC, viêm phổi nặng, đặc biệt là ở lợn con cai sữa.

* PHƯƠNG THỨC TRUYỀN LÂY

- Trực tiếp: Do lợn khỏe tiếp xúc với lợn mắc bệnh, lợn mang trùng, qua phân, nước tiểu,... chứa mầm bệnh và qua thụ tinh nhân tạo.

- Gián tiếp: Qua dụng cụ chăn nuôi, qua thức ăn, qua vận chuyển lợn mang trùng, qua gió và qua người tiếp xúc với lợn ốm.

* TRIỆU CHỨNG

- Đối với lợn nái

+ Giai đoạn mang thai: Sốt 40 - 42°C, biếng ăn, sẩy thai vào giai đoạn chửa 2 hoặc thai chết lưu chuyển thành thai gỗ; thể cấp tính tai chuyển màu xanh, đẻ non vào giai đoạn cuối của thời kỳ mang thai hoặc thai chết yểu.

+ Lợn nái giai đoạn đẻ và nuôi con: Ăn ít, l­ười uống nư­ớc, mất sữa và viêm vú, đẻ sớm, da biến màu, chậm chạp hoặc hôn mê, thai gỗ, hoặc lợn con chết ngay sau khi sinh (khoảng 30%). Lợn con yếu, tai chuyển màu xanh (khoảng 5%). Cấp tính: Đẻ non, tăng tỷ lệ thai chết hoặc yếu, tăng số thai gỗ, chết lưu trong giai đoạn 3 tuần cuối tr­ước khi sinh (có thể tới 30%). Tỷ lệ chết ở đàn con có thể tới 70% ở tuần thứ 3 - 4 sau khi xuất hiện triệu chứng.

+ Lợn nái giai đoạn sau cai sữa: Lợn nái động dục không bình thường (kéo dài) hoặc phối giống mà không thụ thai, ho và viêm phổi nặng.

- Lợn con: Sốt cao (40 - 42°C), gầy yếu, khó thở, mắt có dử mầu nâu, phần da mỏng như da bụng, gần mang tai thường có màu hồng, đôi khi da có vết phồng rộp, ỉa chảy nhiều, ủ rũ, run rẩy và thường bị chết.

- Lợn choai, lợn thịt: Sốt cao (40 - 42°C), biếng ăn, ủ rũ, ho, thở khó, những phần da mỏng như phần gần tai, phần da bụng lúc đầu màu hồng nhạt, dần dần chuyển thành màu hồng thẫm và xanh nhạt.

- Lợn đực giống: Sốt, bỏ ăn, đờ đẫn hoặc hôn mê, giảm hưng phấn hoặc mất tính dục, lượng tinh dịch ít. Các trường hợp cấp tính, lợn đực bị sưng dịch hoàn. Phần lớn lợn đực nhiễm vi rút không có biểu hiện lâm sàng, nhưng trong tinh dịch có virút từ 6 đến 8 tháng.

* BỆNH TÍCH

Một số bệnh tích đặc trưng: Viêm phổi hoại tử và thâm nhiễm đặc trưng bởi những đám chắc, đặc (nhục hoá) trên các thuỳ phổi. Mặt cắt ngang của thuỳ phổi bệnh lồi ra, khô. Viêm phế quản phổi hoá mủ ở mặt dưới thuỳ đỉnh, trong phế nang chứa đầy dịch viêm.Thận xuất huyết đinh ghim, não sung huyết, hạch amidan sưng, sung huyết, gan sưng, tụ huyết, lách sưng, nhồi huyết, hạch màng treo ruột xuất huyết, lột van hồi manh tràng.

* PHÒNG BỆNH

Hiện nay chưa có kháng sinh đặc hiệu để chữa bệnh tai xanh ở lợn, vì vậy công tác phòng bệnh đóng vai trò quan trọng trong chăn nuôi.

1. Vệ sinh chuồng trại

- Trước cổng trại, khu vực chăn nuôi phải có hố khử trùng, trước cửa vào chuồng nuôi có khay thuốc sát trùng, vôi bột.

- Hàng ngày thu gom phân về hố ủ, hệ thống rãnh thoát nước lưu thông tốt về hố ủ biogas, giữ khô nền chuồng với nuôi lợn nái nuôi con và lợn con mới cai sữa; định kỳ phun hóa chất tiêu độc khử trùng khu vực chăn nuôi 1 lần/tuần.

- Sau khi xuất lợn (với lợn thịt), chuyển lợn (với lợn nái) cần vệ sinh chuồng trại, phun thuốc khử trùng và để trống chuồng nuôi 7 ngày rồi mới nhập đàn mới vào chuồng nuôi.

- Sử dụng bạt che chuồng nuôi và có hệ thống sưởi ấm hoặc làm mát để duy trì nhiệt độ thích hợp, nhất là đối với lợn nái nuôi con và lợn con mới cai sữa.

2. Vệ sinh phương tiện, dụng cụ chăn nuôi

- Mỗi dãy chuồng  phải có phương tiện, dụng cụ chăn nuôi riêng; trước khi đưa vào sử dụng và sau khi sử dụng phải rửa sạch và sát trùng kỹ.

- Tất cả các phương tiện vận chuyển khi vào khu vực chuồng nuôi phải được rửa sạch và phun thuốc sát trùng, có khu vực riêng để bảo quản và cất giữ các phương tiện vận chuyển, dụng cụ chăn nuôi.

3. Vệ sinh đối với người chăn nuôi và khách thăm quan khu chăn nuôi

- Hạn chế tối đa khách vào thăm trang trại, khu chăn nuôi;

- Người chăn nuôi phải thực hiện tốt quy định phòng bệnh của trại; người trực tiếp tham gia sản xuất phải được trang bị bảo hộ lao động đảm bảo vệ sinh thú y và an toàn lao động; Người chăn nuôi không được vào khu chuồng khác khi không có nhiệm vụ, hạn chế điều chuyển công nhân từ khu chuồng này sang khu chuồng khác; Các phương tiện, dụng cụ bảo hộ được sử dụng riêng cho từng khu chuồng nuôi.

4. Vệ sinh thức ăn nước uống

- Cho lợn ăn thức ăn đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng; không dùng thức ăn bị ôi, mốc, cần vệ sinh máng ăn của lợn thường xuyên, không để thức ăn còn thừa trong máng.

- Cần cung cấp đầy đủ nuớc uống đảm bảo vệ sinh.

5. Có chuồng nuôi cách ly lợn mới mua trước khi nhập đàn

- Mỗi trại, hộ chăn nuôi cần có khu vực nuôi cách ly cho lợn mới nhập, khu vực nuôi cách ly phải cách xa các chuồng nuôi khác.

- Lợn giống nhập về phải có nguồn gốc rõ ràng, đã được tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin theo quy định và còn thời gian miễn dịch; đối với chăn nuôi lợn thương phẩm cần áp dụng phương thức cùng vào và cùng ra; thực hiện nuôi cách ly 30 ngày trước khi nhập đàn.

6. Nuôi cách ly gia súc ốm

Khi phát hiện lợn ốm phải tách khỏi đàn và nuôi ở khu vực nuôi cách ly để theo dõi, chăm sóc, điều trị; lợn nuôi tại khu cách ly, sau khi khỏi bệnh ít nhất 10 ngày mới cho nhập đàn.

7. Tiêm phòng vắc xin

Tiêm đầy đủ các loại vắc xin phòng bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở lợn như:Tai xanh, Dịch tả lợn cổ điển, tụ huyết trùng, phó thương hàn, Ecoli theo qui trình chăn nuôi.

Trên đây là cách nhận biết bệnh Tai xanh ở lợn và các biện pháp phòng chống. Hy vọng rằng, với kiến thức được cung cấp, giúp bà con chăn nuôi áp dụng tốt, để bảo sức khoẻ và nâng cao sức đề kháng cho đàn vật nuôi góp phần đem lại hiệu quả, nâng cao thu nhập./.

Đức Thiện

Tệp đính kèm