Cập nhật: 13/04/2011 15:24:04 Article Rating
Xem cỡ chữ

Xóa đói, giảm nghèo ở nước ta vẫn đang là vấn đề bức xúc được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần thực hiện phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 2006 - 2010 tạo bước ngoặt mới trong xóa đói, giảm nghèo và là nền tảng cho chúng ta thực hiện những giải pháp xóa đói, giảm nghèo cho giai đoạn 2011 - 2020.

 

Năm 2010 - bước ngoặt mới trong xóa đói, giảm nghèo ở nước ta

 

Từ năm 1986 đến nay, công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng: Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống người dân được cải thiện rõ nét. Tuy nhiên, vấn đề phân hóa giàu nghèo nổi lên giữa các vùng, các nhóm dân cư, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc, đời sống người dân còn hết sức khó khăn.

 

Để giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, nhằm bảo đảm phát triển bền vững, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn từ phong trào xóa đói, giảm nghèo của cả nước giai đoạn 1992 - 1997, từ năm 1998 đến nay, xóa đói, giảm nghèo đã trở thành chương trình mục tiêu quốc gia và được đưa vào kế hoạch định kỳ 5 năm của Chính phủ và các địa phương, đến nay đã qua 3 giai đoạn (1998 - 2000; 2001 - 2005; 2006 - 2010).

 

Giải quyết vấn đề nghèo đói cũng là thể hiện mạnh mẽ cam kết của Đảng, Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Chính phủ Việt Nam đã tập trung chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực thực hiện tốt mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Mỗi giai đoạn tuy có những nội dung, giải pháp khác nhau nhưng đều hướng tới mục tiêu chung là nâng cao mức sống của người dân, giảm nhanh tỷ lệ hộ sống dưới ngưỡng nghèo.

 

Theo Báo cáo Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ năm 2010, Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và cho thấy dấu hiệu khả quan của việc hoàn thành các mục tiêu vào năm 2015. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hằng năm trong thời kỳ 2001 - 2010 đạt 7,2%, GDP bình quân đầu người năm 2010 khoảng 1.160 USD.

 

Cùng với tăng trưởng và phát triển kinh tế, Việt Nam đặc biệt quan tâm và ưu tiên nguồn lực cho giảm nghèo. Với việc giảm 1/2 hộ nghèo vào năm 2002, và đến nay đã giảm được 3/4 số hộ nghèo (so với đầu thập niên 90 thế kỷ XX), hoàn thành trước mục tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo, Việt Nam chuyển vị trí từ nước nghèo sang nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp.

 

Những năm qua, nhờ thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc, miền núi (Chương trình 135), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo (Nghị quyết số 30a) và các chương trình kinh tế - xã hội khác hướng vào mục tiêu giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm nhanh từ 22% (năm 2005) xuống còn 11,3% (năm 2009) và còn 9,45% (năm 2010), bình quân mỗi năm giảm 2% - 3% tỷ lệ nghèo. Người nghèo đã được tiếp cận tốt hơn các nguồn lực kinh tế (vốn, đất đai, công nghệ, thị trường...) và các dịch vụ xã hội cơ bản như: giáo dục, y tế, nước sạch, trợ giúp pháp lý... Kết cấu hạ tầng của các huyện, xã nghèo được tăng cường. Đời sống của người nghèo được cải thiện rõ rệt.

 

Kinh tế tăng trưởng nhanh và liên tục, với tốc độ từ 7% - 8%/năm là một yếu tố quan trọng trong việc giảm nghèo, nhưng điểm nổi bật ở Việt Nam khác với các nước khác là tăng trưởng nhanh nhưng cũng hạn chế được tốc độ gia tăng bất bình đẳng. Hệ số Gini, một chỉ số xem xét bất bình đẳng thu nhập, chỉ tăng từ 0,329 năm 1993 lên 0,356 năm 2008; độ sâu nghèo đói, tính bằng tỷ lệ người nghèo nằm gần ngưỡng nghèo đã giảm xuống. Chính vì vậy, thành tựu giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận: “Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế”.

 

Những khó khăn, thử thách

 

Tuy tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng kết quả giảm nghèo chưa bền vững, số hộ đã thoát nghèo nhưng mức thu nhập nằm sát chuẩn nghèo rất lớn (70% - 80%), tỷ lệ hộ tái nghèo hằng năm so với tổng số hộ thoát nghèo còn cao (7% - 10%); chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, đặc biệt là ở những huyện, xã có tỷ lệ hộ nghèo cao.

 

Các chương trình giảm nghèo triển khai trong thời gian qua chưa toàn diện; nhiều chính sách, chương trình giảm nghèo đã được ban hành nhưng còn mang tính ngắn hạn, chồng chéo, chưa tạo sự gắn kết chặt chẽ và lồng ghép tập trung vào mục tiêu giảm nghèo; công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân còn nhiều hạn chế, tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, vào cộng đồng vẫn còn phổ biến ở nhiều địa phương nên đã hạn chế phát huy nội lực và sự nỗ lực vươn lên.

 

Theo chuẩn nghèo mới dự kiến áp dụng từ năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước chiếm khoảng 15%- 17%, người nghèo tập trung phần lớn ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 90%; một số huyện miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền núi Duyên hải miền Trung, Tây Nam Bộ là những nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tỷ lệ hộ nghèo còn cao (trên 50%), là địa bàn rất khó khăn đối với công tác giảm nghèo.

 

Giải quyết vấn đề nghèo đói là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân ta, để bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong 10 năm tới, giảm nghèo bền vững là một trong những nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước, cũng như trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện của Chính phủ, chính quyền các cấp nhằm phát huy nội lực của toàn xã hội cũng như sự nỗ lực, vươn lên của người nghèo. Nhà nước tiếp tục tập trung ưu tiên cho những địa bàn khó khăn nhất (vùng miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Duyên hải miền Trung, Tây Nam Bộ) nhằm bảo đảm giảm nghèo nhanh và bền vững ở những vùng này so với cả nước.

 

Định hướng giảm nghèo nhanh và bền vững

 

Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc giảm nghèo và thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, định hướng giảm nghèo thời kỳ 2011 - 2020 như sau:

 

Thứ nhất, các chính sách giảm nghèo thường xuyên sẽ được hệ thống lại, trên cơ sở rà soát, đánh giá lại toàn bộ các chính sách hiện hành do các bộ, ngành được giao trách nhiệm chủ trì tổ chức thực hiện, hướng vào đối tượng người nghèo, hộ nghèo. Trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ ban hành nghị quyết về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ 2011 - 2020, trong đó, bao gồm các chính sách hỗ trợ trực tiếp đối với hộ nghèo, người nghèo; chính sách đặc thù cho địa bàn khó khăn nhất.

 

Thứ hai, tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2015. Chính phủ sẽ tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư từ ngân sách trung ương để đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo ở các địa bàn đặc biệt khó khăn, trong đó tập trung vào các nội dung: tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng ở các địa bàn đặc biệt khó khăn; hỗ trợ sản xuất, tăng thu nhập cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng và nhân rộng mô hình giảm nghèo bền vững; nâng cao năng lực giảm nghèo và truyền thông; tăng cường hoạt động giám sát, đánh giá các chính sách giảm nghèo tác động đến đối tượng thụ hưởng. Trên cơ sở đó, các địa phương căn cứ cơ chế, chính sách giảm nghèo để huy động nguồn lực và bố trí ngân sách tại chỗ để đầu tư.

 

Thứ ba, thực hiện cơ chế phân cấp, trao quyền, hỗ trợ trọn gói có mục tiêu cho địa phương, đi đôi với nâng cao năng lực và tăng cường sự tham gia của người dân.

 

Thứ tư, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 2%/năm theo chuẩn mới, riêng 62 huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm bình quân 4%/năm; Tạo việc làm ổn định và đa dạng hoạt động thu nhập cho lao động nghèo; Tăng thu nhập bình quân đầu người của các hộ nghèo lên 3,5 lần và thu nhập bình quân đầu người của các huyện nghèo nhất tăng ít nhất 3 lần so với năm 2010; Bảo đảm các điều kiện thiết yếu về nhà ở, nước sinh hoạt, tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, đời sống văn hóa, tinh thần, tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí cho các hộ nghèo, đặc biệt hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số ở các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; Kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh ở các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn đạt chuẩn theo tiêu chí nông thôn mới./.

 

Bà Nguyễn Thị Kim Ngân Bí thư Trung ương Đảng

Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

 

Theo Tạp chí Cộng sản

Tệp đính kèm