Triển lãm “Tranh dân gian Việt Nam và ứng dụng” sẽ diễn ra từ ngày 24/10-10/11 tại Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu-Quốc Tử Giám (Hà Nội).
Triển lãm diễn ra từ ngày 24/10-10/11 tại Hà Nội. (Ảnh minh họa: BTC)
Chương trình giới thiệu tới công chúng những hình ảnh, tư liệu về quá trình hình thành, phát triển cùng những đặc điểm nổi bật của sáu dòng tranh dân gian Việt Nam: tranh Kim Hoàng, tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ, tranh kính, tranh gói vải và tranh làng Sình.
Bên cạnh đó, triển lãm cũng sẽ trưng bày các sản phẩm ứng dụng (sản phẩm thời trang, đồ gia dụng…) có sử dụng các họa tiết trang trí của dòng tranh dân gian Kim Hoàng.
Đại diện ban tổ chức cho hay, triển lãm “Tranh dân gian Việt Nam và ứng dụng” được tổ chức nhằm giới thiệu tới công chúng những giá trị độc đáo của tranh dân gian Việt Nam cũng như những nỗ lực của các nghệ nhân, họa sỹ trong hành trình hồi sinh, gìn giữ dòng tranh này.
Với ngôn ngữ đặc thù, dòng tranh dân gian đã trở thành tư liệu quan trọng, cụ thể hóa những ý niệm về vũ trụ, nhân sinh quan và cái đẹp của nhiều thế hệ ở những địa bàn khác nhau. Các lớp ngữ nghĩa của tranh dân gian rất đa dạng.
Tranh dân gian Kim Hoàng (Hoài Đức, Hà Nội) hình thành vào nửa sau thế kỷ 18. Lối chữ thảo trên góc trái tạo nên điểm khác biệt cho dòng tranh này. Sự kết hợp của thơ và hình vẽ tạo nên một chỉnh thể hài hoà, chặt chẽ cho tranh.
Tranh Kim Hoàng thường in trên nền giấy đỏ, giấy hồng điều hoặc giấy vàng tàu nên còn được gọi là tranh Đỏ. Ở tranh Kim Hoàng, các nghệ nhân chỉ sử dụng một bản khắc để in nét đen lên giấy rồi dựa vào đó mà tự do chấm phá màu sắc theo cảm xúc riêng của mỗi người. Vì thế, mỗi bức tranh có một diện mạo riêng, dù cùng được in ra từ một bản khắc.
Dòng tranh Hàng Trống phát triển ở các phố Hàng Trống, Hàng Nón (Hà Nội) với hai loại phổ biến là tranh thờ và tranh Tết. Đặc điểm nổi bật của dòng tranh này nét mảnh, tinh, yểu điệu. Do sử dụng được màu phẩm nên hòa sắc của tranh Hàng Trống rất phong phú, gợi được khối của không gian. Màu thường là lam-hồng, ngoài ra còn có thêm lục-đỏ, da cam-vàng. Tranh chỉ tạo khối ở nhân vật, không có khái niệm về không gian xa-gần.
Tranh dân gian Đông Hồ ra đời từ khoảng thế kỷ 16-17 và phát triển mạnh cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Đây là dòng tranh gắn bó và thể hiện sinh động đời sống xã hội nông nghiệp Việt Nam cổ truyền với các phong tục, tập quán sinh hoạt.
Phần lớn bảng màu của tranh sử dụng chất liệu trong tự nhiên như trắng của sò điệp, đen của than lá tre già, đỏ của gỗ vang, xanh của lá chàm, vàng của hoa hòe,… Những màu nguyên ấy đều được in mảng bẹt cạnh nhau không cần màu trung gian.
Tranh làng Sình là dòng tranh mộc bản được sử dụng phổ biến ở cố đô Huế với mục đích cúng lễ. Người dân thờ tranh với ước vọng người yên, vật thịnh. Sau khi cúng lễ, tranh thường được mang hóa.
Bên cạnh các đề tài tín ngưỡng, phục vụ thờ cúng, tranh làng Sình còn có tranh tố nữ, tranh tả cảnh sinh hoạt xã hội. Tranh có nhiều cỡ khác nhau, ứng với nó là kiểu in vẽ cũng khác nhau. Giấy in tranh là giấy mộc quét điệp. Màu sắc trước đây được tạo từ các sản phẩm tự nhiên (thực vật, kim loại hay sò điệp). Điểm nổi bật ở tranh làng Sình là đường nét và bố cục còn mang tính thô sơ chất phác.
Tranh gói vải là dòng tranh dân gian tạo hình nổi trên lụa, thịnh hành ở Nam Bộ trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ 20. Một bức tranh hình nổi trên lụa được bắt dầu từ khâu phác thảo vẽ nét. Nền tranh được người thợ vẽ bằng màu bột. Các chủ thể chính của tranh (như người, con vật hoặc cây cối…) được dùng bông tạo hình; sau đó dùng vải, gấm hoặc lụa phủ lên rồi tạo nếp sao cho thật nhất. Sau cùng, keo sẽ được gắn lên mặt tranh đã được vẽ nền.
Tranh kính phổ biến ở Huế và Nam Bộ; trong đó, tranh kính Huế là dòng tranh mang đặc trưng mỹ thuật cung đình Huế bởi xuất xứ, cách thể hiện cùng chất liệu độc đáo. Tranh được đóng trong những khung gỗ chạm thếp vàng. Các nghệ nhân dùng chất liệu là bột màu pha keo hoặc sơn để vẽ hoặc khảm xà cừ vào mặt sau của kính.
Tranh kính Huế gồm ba loại chính: tranh cao cấp (thể hiện các cảnh đẹp của Huế và vịnh các mùa trong năm đi kèm với thơ ngự chế, thường sử dụng bảng màu lạnh), tranh không có thơ ngự chế nhưng có đề rõ chủ đề (minh họa cho các điển tích trong lịch sử, thường được vẽ bằng màu đỏ ấm) và tranh tĩnh vật.
Tranh kính Nam Bộ có thể được vẽ thuần bằng sơn màu đa sắc (thêm ngân nhũ và kim nhũ) hoặc kết hợp với kỹ thuật tráng thủy. Dòng tranh này có nhiều loại: tranh thờ tổ tiên, tranh Thần, tranh Phật, tranh chúc tụng, tranh cảnh vật...
Theo Chinhphu.vn