Tại nước ta, tỷ lệ người mắc và chết vì bệnh ung thư vẫn tiếp tục tăng. Nguyên nhân là do ô nhiễm môi trường; thực phẩm không an toàn; nhận thức của người dân về bệnh ung thư còn hạn chế… Trong khi đó, cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn nhân lực cho công tác phát hiện, điều trị ung thư tại nhiều địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu.
Một ca phẫu thuật nội soi bóc tách khối u thực quản cho người bệnh tại Bệnh viện K.
Số liệu nghiên cứu, thống kê cho thấy số người mắc mới bệnh ung thư tăng nhanh, từ 68 nghìn ca (năm 2000) lên 126 nghìn ca (năm 2010) và dự kiến sẽ vượt qua 190 nghìn ca (vào năm 2020). Mỗi năm có khoảng 115 nghìn người chết vì ung thư. Tổ chức Y tế thế giới xếp Việt Nam đứng ở vị trí thứ 78 trong 172 quốc gia, vùng lãnh thổ có tỷ lệ chết vì ung thư cao. Ở nam giới, ung thư phổi chiếm tỷ lệ mắc và chết đứng đầu, tiếp theo là dạ dày, gan, đại trực tràng. Còn ở nữ giới, lần lượt là ung thư vú, dạ dày, đại trực tràng, phổi, cổ tử cung, gan… Ung thư tiền liệt tuyến ở nam giới và ung thư tuyến giáp ở nữ giới có tốc độ gia tăng nhanh nhất.
Không chỉ số lượng người mắc bệnh ung thư, mà chi phí điều trị bệnh ung thư cũng liên tục tăng. Theo Trung tâm Phát triển toàn cầu, những bệnh mãn tính gồm ung thư, tim mạch và tiểu đường là thủ phạm gây ra hơn 60% số trường hợp chết trên toàn thế giới và tiêu tốn gần 3% tổng chi phí điều trị toàn cầu. Sự tốn kém trong điều trị và làm mất khả năng lao động, cướp đi sự sống do ung thư nhiều hơn HIV/AIDS, bệnh sốt rét, cúm và các bệnh lây truyền. Tại Việt Nam, ước tính chi phí trực tiếp cho sáu bệnh ung thư (vú, tử cung, gan, đại tràng, khoang miệng và dạ dày) lên tới khoảng 25.789 tỷ đồng, chiếm 0,22% GDP (năm 2012). Ðáng lo ngại, cứ 10 năm chi phí điều trị ung thư lại tăng gấp 1,5 đến hai lần, vì người bệnh được tiếp cận những phương pháp chẩn đoán và điều trị mới tiên tiến hơn, như áp dụng các xét nghiệm hiện đại; cập nhật kỹ thuật phẫu thuật mới; sử dụng thuốc mới.
Theo GS,TS Trần Văn Thuấn, Giám đốc Bệnh viện K (Bộ Y tế): Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ người mắc ung thư mới ở Việt Nam tiếp tục tăng thời gian qua là do người dân có những suy nghĩ và nhận thức chưa đúng về bệnh ung thư. Do vậy, bệnh thường được phát hiện ở giai đoạn muộn, khi mà các biện pháp điều trị đều gần như không còn hiệu quả. Kết quả đánh giá đầu ra giai đoạn 2011 - 2015 về hoạt động phòng, chống ung thư qua một số cơ sở khám, chữa bệnh chuyên khoa ung bướu cho thấy, có đến 65,5% số người bệnh được khảo sát đến khám và điều trị giai đoạn muộn (giai đoạn ba). Bên cạnh đó, theo Quyết định số 4595/QÐ- BYT, ngày 24-11-2009 của Bộ trưởng Y tế về phê duyệt quy hoạch mạng lưới phòng, chống ung thư giai đoạn 2009 - 2020, thì đến năm 2020, các tỉnh, thành phố đều có cơ sở khám và điều trị ung thư (khoa ung bướu, trung tâm ung bướu hoặc bệnh viện ung bướu). Tuy nhiên, chỉ riêng về số giường bệnh thực tế hiện mới đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu; mới có một phần ba số tỉnh, thành phố có khả năng tiếp nhận và điều trị người bệnh ung thư đầy đủ của chu trình điều trị đa mô thức, còn lại phần lớn người bệnh chuyển lên tuyến trên. Tại các bệnh viện đa khoa tỉnh chưa có khoa ung bướu, người bệnh thường nằm rải rác ở các khoa ngoại khoa, khoa nội. Cho nên, các hoạt động chuyên môn khó có điều kiện phát triển chuyên sâu, một số quy trình kỹ thuật trong điều trị chưa được tuân thủ chặt chẽ. Trong khi đó, phần lớn các bệnh viện có khoa ung bướu cũng chưa đủ các nguyên đơn để thực hiện đầy đủ quy trình điều trị đa mô thức, hiện mới chỉ đáp ứng được nhu cầu điều trị phẫu thuật một số bệnh ung thư cơ bản do đội ngũ nhân lực chuyên ngành ung thư chưa đáp ứng về số lượng và trình độ chuyên môn.
Nhằm từng bước khắc phục những hạn chế, khó khăn nêu trên, nhất là thực hiện mục tiêu đến năm 2025, hạn chế sự gia tăng tỷ lệ mắc mới và chết do ung thư; 40% số người mắc ung thư được phát hiện ở giai đoạn sớm, Bộ Y tế cần tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để hoạt động phòng, chống ung thư được thực hiện thống nhất theo hệ thống từ trung ương đến địa phương; bảo đảm trang thiết bị cho công tác dự phòng, khám sàng lọc, phát hiện sớm, điều trị, chăm sóc giảm nhẹ theo dõi và quản lý lâu dài người bệnh. Tăng cường phát hiện các triệu chứng, chăm sóc giảm nhẹ, quản lý ghi nhận ung thư tại phòng khám, trạm y tế xã và cộng đồng theo quy định, bảo đảm cung cấp dịch vụ quản lý, theo dõi, chăm sóc liên tục cho người bệnh. Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác tiêm vắc-xin phòng ung thư, nhất là duy trì tỷ lệ cao trẻ em được tiêm đủ liều vắc-xin viêm gan B; từng bước mở rộng triển khai dịch vụ tiêm vắc-xin phòng ung thư cổ tử cung cho phụ nữ trong độ tuổi và các loại vắc-xin khác nếu có.
Các chuyên gia trong lĩnh vực ung bướu cũng đề nghị cần tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện các cơ sở chẩn đoán, điều trị bệnh ung thư; tập trung nguồn lực triển khai cập nhật các kỹ thuật hiện đại tại các bệnh viện chuyên khoa ung bướu; triển khai các biện pháp sàng lọc phù hợp, hiệu quả để tăng cường phát hiện sớm ung thư, có hệ thống quản lý theo dõi các tổn thương tiền ung thư. Xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên gắn với đội ngũ cộng tác viên y tế, nhất là chú trọng đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác truyền thông phòng, chống ung thư tại các tuyến; đồng thời duy trì và triển khai có hiệu quả các hoạt động tư vấn phòng, chống ung thư tại cộng đồng một cách thiết thực và hiệu quả.
Theo THÁI SƠN/nhandan.com.vn