Ung thư tụy là một trong những bệnh lý ác tính nhất của đường tiêu hóa. Tỷ lệ sống thêm 5 năm chung cho tất cả các giai đoạn không quá 4%.
Ung thư tụy đứng hàng thứ 6 trong các ung thư đường tiêu hóa và thứ 5 về tỷ lệ tử vong. Nguyên nhân gây bệnh chưa được làm rõ. Một số yếu tố nguy cơ của bệnh bao gồm hút thuốc lá, béo phì, di truyền, đái tháo đường, chế độ ăn, lối sống ít hoạt động.
Theo BS Lê Công Định, khoa Nội II, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, tiên lượng của ung thư tụy rất xấu. Nguyên nhân chủ yếu khiến ung thư tụy có tiên lượng xấu so với ung thư tiêu hóa khác là bởi tụy có vị trí đặc biệt ở rất sâu trong ổ bụng, triệu chứng lâm sàng nghèo nàn lại dễ nhầm với bệnh khác nên người bệnh thường được chẩn ở giai đoạn muộn. Tại Mỹ, chỉ 10% bệnh nhân ung thư tụy được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, trong khi đó 53% bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn IV khi đã có di căn xa.
TS Đỗ Tuấn Anh, Trưởng khoa Phẫu thuật Gan mật, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (Hà Nội)
TS Đỗ Tuấn Anh, Trưởng khoa Phẫu thuật Gan mật, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức (Hà Nội) cho biết ở giai đoạn sớm, ung thư tụy không có triệu chứng đặc hiệu, các biểu hiện lâm sàng mơ hồ, bệnh thường được phát hiện tình cờ. Đến khi phát hiện thì bệnh đã ở giai đoạn muộn. Bệnh nhân có biểu hiện đau thường gặp nhất ở vùng thượng vị, hay vùng hạ sườn phải, chiếm tỷ lệ 80-90% trong số các ung thư tụy và hay gặp hơn ở các ung thư thân và đuôi tụy. Đau ở bụng dưới trong thời gian dài trước khi biểu hiện các triệu chứng khác.
Ngoài ra, bệnh nhân ung thư tụy còn có một số biểu hiện như:
- Vàng da: Đây là hậu quả của khối u xâm lấn đường mật và kèm theo ngứa. 80-90% bệnh nhân u đầu tụy có vàng da, chỉ có 6% số bệnh nhân u ở thân và đuôi tụy, vàng da tắc mật tiến triển từ từ, ngày càng tăng dần, vàng đậm.
- Sốt: Nhiệt độ tăng kèm rét run như triệu chứng của áp xe đường mật, gặp ở 10% bệnh nhân có ung thư đầu tụy, nhưng không thường gặp.
- Các triệu chứng khác: Hay gặp sút cân, thường là 2 tháng trước khi đến gặp thầy thuốc, đầy hơi, nôn, chướng bụng, thiếu máu, ỉa chảy, táo bón, mệt mỏi.
TS Tuấn Anh khuyến cáo, người dân nên đi kiểm tra định kỳ thường xuyên để kịp thời phát hiện và điều trị bệnh, đặc biệt khi có các triệu chứng bệnh cần đến các cơ sở y tế uy tín để được thăm khám và có phương pháp xử lý đúng đắn.
Tùy vị trí và giai đoạn bệnh có các phương pháp điều trị tương ứng. Đối với u vùng đầu tụy, phẫu thuật cắt khối tá tụy là phương pháp duy nhất có tính triệt căn, giúp kéo dài thời gian sống thêm cho bệnh nhân. Bên cạnh đó có một số phương pháp phẫu thuật khác như: cắt khối tá tụy, nối tắt, mổ thăm dò, sinh thiết; điều trị hóa chất, hóa trị bổ trợ.
Với những trường hợp có chống chỉ định cắt khối tá tụy, các phương pháp phẫu thuật tạm thời bao gồm: nối tắt, mở thông hỗng tràng, dẫn lưu mật… chỉ nhằm mục đích điều trị triệu chứng và dinh dưỡng cho bệnh nhân.
Việc điều trị phẫu thuật can thiệp cần kết hợp với chăm sóc giảm nhẹ. Đây là hoạt động nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh. Trong ung thư tụy, chăm sóc giảm nhẹ bao gồm điều trị đau, điều trị tâm lý, xử trí tình trạng nặng khác cho bệnh nhân.
Ung thư tụy là một trong những bệnh lý ác tính nhất của đường tiêu hóa. Tỷ lệ sống thêm 5 năm chung cho tất cả các giai đoạn không quá 4%, TS Tuấn Anh cho biết.
Theo Hà An/dantri.com.vn – Ngày 8/12/2020