Cập nhật: 17/05/2025 13:48:00
Xem cỡ chữ

Theo dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch thì có thể được xét trở lại quốc tịch Việt Nam.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)

Sáng 17/5, tại Nhà Quốc hội, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.

Nới lỏng điều kiện

Trình bày Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh cho biết việc xây dựng Luật nhằm thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, như Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị; Chỉ thị số 45- CT/TW ngày 19/5/2015, Kết luận số 12-KL/TW ngày 12/8/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác người Việt Nam ở nước ngoài...

Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khi thực hiện thủ tục nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam, qua đó, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc nhân kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung gồm 3 Điều, tập trung vào hai chính sách lớn.

Cụ thể gồm chính sách nới lỏng điều kiện liên quan đến việc nhập quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các trường hợp có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; nhà đầu tư, nhà khoa học, chuyên gia nước ngoài... được nhập quốc tịch Việt Nam; chính sách nới lỏng điều kiện liên quan đến việc trở lại quốc tịch Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam.

Dự thảo luật có một số nội dung cơ bản, như: sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người chưa thành niên nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ hoặc người chưa thành niên có cha đẻ hoặc mẹ đẻ hoặc ông nội và bà nội hoặc ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam.

Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 19 theo hướng đối với người chưa thành niên xin nhập quốc tịch Việt Nam theo cha hoặc mẹ, người chưa thành niên có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thì không cần đáp ứng điều kiện “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ."

Dự thảo bỏ quy định về các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam tại khoản 1 Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam. Tất cả các trường hợp đã mất quốc tịch Việt Nam có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam thì có thể được xét trở lại quốc tịch Việt Nam.

Sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 23 theo hướng người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ quốc tịch nước ngoài nếu đáp ứng 2 điều kiện tương tự trường hợp được nhập quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài và được Chủ tịch nước cho phép...

Thúc đẩy chính sách hòa hợp dân tộc, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao

Báo cáo thẩm tra do Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng trình bày cho biết Ủy ban tán thành sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.

Nội dung dự thảo Luật cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng song đề nghị cần tiếp tục làm rõ để thể chế hóa đầy đủ "cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch" theo yêu cầu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị để thu hút, trọng dụng các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành là người Việt Nam ở nước ngoài.

Ủy ban cũng cơ bản tán thành phạm vi sửa đổi, bổ sung; tán thành trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam quy định tại khoản 6, khoản 9 Điều 1 của dự thảo Luật (sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 21, khoản 3 Điều 25 của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành).

Cùng với đó Ủy ban tán thành việc quy định trong Luật các điều kiện mang tính nguyên tắc đối với trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam mà vẫn được giữ quốc tịch nước ngoài quy định tại điểm c khoản 7 Điều 1 của dự thảo Luật (sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 23 của Luật Quốc tịch Việt Nam hiện hành).

Về điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 4 Điều 1 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam), Ủy ban cơ bản tán thành nội dung sửa đổi, bổ sung Điều 19 của Luật Quốc tịch Việt Nam như quy định tại khoản 4 Điều 1 của dự thảo Luật nhằm góp phần tăng cường khối đại đoàn kết, thúc đẩy chính sách hòa hợp dân tộc và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Ủy ban cũng đề nghị tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để quy định phù hợp điều kiện “có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam” đối với người xin nhập quốc tịch Việt Nam mà có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, ông nội và bà nội, ông ngoại và bà ngoại là công dân Việt Nam; làm rõ thời gian thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tại điểm đ khoản 1 Điều 19 có cần liên tục không...

Về điều kiện được trở lại quốc tịch Việt Nam, Ủy ban cơ bản nhất trí với quy định của dự thảo luật và cho rằng nội dung sửa đổi này là cần thiết nhằm kịp thời thể chế hóa yêu cầu tại các văn bản, chỉ đạo của Đảng, tạo điều kiện khuyến khích và thuận lợi hơn cho những người đã mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam, đồng thời phù hợp với thay đổi của tình hình thực tiễn, bảo đảm tính ổn định, lâu dài của luật.

Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể về điều kiện “có thể” được trở lại quốc tịch Việt Nam trong luật vì liên quan đến quyền trở lại quốc tịch của người Việt Nam ở nước ngoài./.

Theo (TTXVN/Vietnam+)

https://www.vietnamplus.vn/tao-dieu-kien-cho-viec-nhap-tro-lai-quoc-tich-viet-nam-post1039073.vnp