Cập nhật: 26/12/2011 13:58:51 Article Rating
Xem cỡ chữ

Lạm phát cao trong nửa đầu năm đã được kiềm chế vào nửa cuối năm, nhưng tính chung cả năm vẫn ở mức cao. Tuy nhiên, có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích khi tiếp tục thực hiện nhiệm vụ ưu tiên kiềm chế lạm phát trong năm 2012.

Lạm phát ở nước ta có một số đặc điểm như có sự lặp đi lặp lại theo chu kỳ từ năm 2004 đến nay, đó là cứ 1 năm tăng thấp hơn thì lại đến 2 năm tăng cao hơn (năm 2003 tăng 3%, thì năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%; năm 2006 tăng 6,6%, thì năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%; năm 2009 tăng 6,52%, thì năm 2010 tăng 11,75%, năm 2011 tăng hơn 18%).

 

Trong 11 nhóm hàng hoá, dịch vụ, thì nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống- nhóm chiếm gần 40% tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng- tăng cao gần gấp đôi của các nhóm hàng hóa, dịch vụ còn lại.

 

Có 4 nhận xét từ những con số này. Lương thực- thực phẩm giá tăng cao nhất do trước đây bị các nước phát triển ép giá, do nhiều nước chuyển hướng vào phát triển công nghiệp, dịch vụ, nay phải nhập khẩu lớn lương thực. Việt Nam xuất phát từ nông nghiệp đi lên, gần một nửa số lao động làm nông, lâm nghiệp- thủy sản, còn hơn 1/10 dân số thuộc diện nghèo và cận nghèo với tỷ trọng tiêu dùng lương thực- thực phẩm cao hơn nhiều so với tỷ trọng chung, làm cho tâm lý lạm phát nặng nề hơn. Riêng về thực phẩm, Việt Nam chưa tự cân đối được, còn phải nhập khẩu nhiều loại với khối lượng không nhỏ, dễ gây nên sốt giá… Chênh lệch lớn về giá lương thực, thực phẩm giữa người sản xuất với người mua gom, chợ đầu mối, cửa hàng ăn uống, người tiêu dùng cuối cùng, cộng với chi phí đầu vào gia tăng, phản ánh công tác quản lý giá chưa tốt, còn lúng túng, làm cho người sản xuất nông sản, thực phẩm dù giá tăng cao nhưng vẫn không được hưởng lợi nhiều, còn người tiêu dùng lại bị giá cao.

 

Lạm phát cao trong nửa đầu năm có phần do tốc độ tăng dư nợ tín dụng, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán cao trong nhiều năm trước tích lũy lại; lạm phát những tháng cuối năm được kiềm chế khi Chính phủ quyết liệt đưa các tốc độ này thấp chưa bằng một nửa các năm trước.

 

Lạm phát cao do tỷ lệ vốn đầu tư/GDP cao trên 40% trong nhiều năm trước, trong đó tỷ trọng đầu tư công lớn; lạm phát đã được kiềm chế bước đầu khi tỷ lệ đó giảm xuống (còn dưới 38%) trên cơ sở cắt giảm đầu tư công, các doanh nghiệp nhà nước thoái vốn dần ở các lĩnh vực ngoài chuyên môn chính.

 

Lạm phát cao khi giá vàng, giá USD có biến động lớn tác động mạnh đến yếu tố tâm lý. Lạm phát đã chậm lại khi giá vàng, giá USD cơ bản được ổn định trở lại.

 

Từ những vấn đề trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm về kiềm chế lạm phát.

 

Thứ nhất, trong việc lựa chọn ưu tiên giữa các mục tiêu vào lúc này, nhất là giữa mục tiêu tăng trưởng và lạm phát, thì Chính phủ đã chọn mục tiêu ưu tiên là kiềm chế lạm phát, không thúc đẩy tăng trưởng bằng mọi giá. Đây là nét mới trong tư duy về kiềm chế lạm phát. Trong mục tiêu năm 2012, tăng trưởng cũng được xếp thứ 3 và cũng là tăng trưởng hợp lý- tức là tăng trưởng tương đương với năm 2011 (6%) để chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của tình hình và tập trung cho nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức 6,5%, còn mục tiêu ưu tiên vẫn là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

 

Thứ hai, một trong những nguyên nhân trực tiếp làm cho lạm phát bộc bộ ra là do hệ quả của việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm trước. Vì vậy, việc điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và linh hoạt, bảo đảm tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tăng dư nợ tín dụng hàng năm không vượt quá mức đề ra như trong Nghị quyết 11 của Chính phủ. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, giảm bội chi ngân sách, tiết kiệm chi thường xuyên; giảm tỷ trọng đầu tư công, chuyển một phần đầu tư nhà nước sang đầu tư từ các nguồn vốn khác, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nhà nước; kiểm soát chặt chẽ hiệu quả đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; bảo đảm nợ công trong giới hạn an toàn.

 

Thứ ba, nguyên nhân tiềm ẩn, sâu xa của lạm phát ở nước ta vẫn là hiệu quả đầu tư và năng suất lao động còn thấp, là cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả. Vì vậy cần xúc tiến ngay và đẩy nhanh việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế với 3 trọng tâm theo Nghị quyết của Chính phủ (đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng thương mại).

 

Thứ tư, lạm phát có nguyên nhân bên ngoài do giá nguyên liệu vật tư nhập khẩu tăng cao, trong điều kiện xuất khẩu hàng hóa/GDP năm 2011 lên đến trên 82% và nhập siêu còn lớn, thì việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ để hạn chế nhập siêu; ổn định tỷ giá để hạn chế việc khuếch đại lạm phát ở trong nước là rất quan trọng.

 

Thứ năm, lạm phát có nguyên nhân do phải điều chỉnh tăng giá theo lộ trình một số hàng hóa và dịch vụ. Việc thực hiện lộ trình giá thị trường là đúng với nền kinh tế chuyển đổi, nhưng nếu điều chỉnh dồn dập với tốc độ cao sẽ có tác động cộng hưởng làm cho lạm phát bùng lên.

 

Thứ sáu, lạm phát có nguyên nhân quan trọng là do tác động cộng hưởng của yếu tố tâm lý. Sự bất ổn về giá vàng, giá USD sẽ tác động lớn đến lạm phát. Vì vậy, ổn định giá vàng, tỷ giá sẽ có tác dụng quan trọng để ổn định tâm lý, làm tăng lòng tin đối với đồng tiền quốc gia, góp phần kiềm chế lạm phát.

 

Thứ bảy, để tránh nguy cơ vừa lạm phát cao, vừa đình trệ, cần có giải pháp trung hòa. Bảo đảm vốn cho sản xuất, ưu tiên cung ứng lượng vốn và lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh lương thực, thực phẩm, hàng xuất khẩu, công nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa.

 

 

Theo Đào Ngọc/Chinhphu.vn

Tệp đính kèm