Trẻ sơ sinh và người mắc bệnh mạn tính là đối tượng dễ bị tụ cầu xâm nhập nhất. Người cao tuổi, bị suy nhược, người lạm dụng thuốc kháng sinh, bệnh nhân đái tháo đường, bệnh túi mật, suy thận mạn, vô gammaglobulin huyết, rối loạn chức năng bạch cầu (mất bạch cầu hạt, bệnh u hạt mạn tính), khối u và bỏng... cũng có nguy cơ cao nhiễm loại vi khuẩn này. Điều kiện thời tiết nóng ẩm mùa hè là yếu tố thuận lợi cho nhiều bệnh do tụ cầu khuẩn gây ra.
Tụ cầu khuẩn tấn công gây viêm nang lông
Có thể tử vong do các bệnh liên quan đến tụ cầu
Rất nhiều hội chứng và biểu hiện lâm sàng do tụ cầu khuẩn gây ra, từ các nhọt đơn thuần đến nhiễm khuẩn nhiều bộ phận trong cơ thể và tử vong. Các tổn thương thông thường do tụ cầu là chốc lở, viêm nang lông, các loại mụn nhọt, áp-xe và nhiễm khuẩn các vết rách, xước trên da. Các biểu hiện toàn thân hiếm gặp nhưng nếu các tổn thương lan rộng thì có thể làm người bệnh sốt, mệt mỏi, đau đầu, ăn uống kém. Các tổn thương chốc lở ngoài da thường không phức tạp nhưng khi vi khuẩn lưu hành trong máu có thể gây ra những bệnh nguy hiểm như viêm phổi, áp-xe phổi, viêm tuỷ xương, nhiễm khuẩn huyết, viêm màng trong tim, viêm khớp xương mủ cấp, viêm màng não hoặc áp-xe não... Ngoài các tổn thương chủ yếu ở da còn có viêm kết mạc do tụ cầu ở trẻ sơ sinh và người lớn.
Đi kèm hoặc sau những đợt cúm, sốt virut cũng là cơ hội thuận lợi cho tụ cầu khuẩn xâm nhập và tiếp tục gây bệnh. Viêm màng trong tim và các biến chứng khác do nhiễm tụ cầu huyết có thể do nguyên nhân dùng các loại thuốc bằng đường tiêm truyền, hoặc đặt catheter và sử dụng các loại dụng cụ khác can thiệp vào tĩnh mạch. Các tổn thương da do tắc mạch là những biến chứng thường gặp của viêm màng trong tim và/hoặc nhiễm khuẩn huyết.
Người già và trẻ nhỏ là đối tượng dễ bị tụ cầu tấn công
Phòng bệnh tụ cầu khuẩn cũng như các bệnh nhiễm khuẩn khác thì yếu tố vệ sinh cá nhân là điều kiện quan trọng, rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh là yêu cầu cơ bản để phòng bệnh, giữ gìn sạch sẽ những vết trầy xước trên da. Những bệnh nhân tai biến mạch máu não nằm liệt giường có thể dẫn đến xuất hiện các vết loét cần phải được chăm sóc hỗ trợ vận động như xoa bóp cho mạch máu lưu thông, bệnh nhân đái tháo đường cần giữ gìn bàn chân tránh bị phồng loét.
Trẻ sơ sinh và người mắc bệnh mạn tính là đối tượng dễ bị tụ cầu xâm nhập nhất. Người cao tuổi, bị suy nhược, người lạm dụng thuốc kháng sinh, bệnh nhân đái tháo đường, xơ túi mật, suy thận mạn, vô gammaglobulin huyết, rối loạn chức năng bạch cầu (mất bạch cầu hạt, bệnh u hạt mạn tính), khối u và bỏng... cũng có nguy cơ cao nhiễm loại vi khuẩn này.
Nguyên nhân gây bệnh là những chủng staphylococcus khác nhau, hầu hết có coagulase dương tính. Tuy nhiên các chủng tụ cầu có coagulase âm tính ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong nhiễm khuẩn huyết ở các bệnh nhân đặt catheter mạch máu, nhiễm khuẩn tiết niệu ở phụ nữ và các nhiễm khuẩn khác tại bệnh viện.
Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất ở những vùng có điều kiện vệ sinh cá nhân kém, nơi đông dân cư, đặc biệt là thiếu nước sạch trong sinh hoạt, thời tiết nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát sinh mạnh. Nơi cư trú của vi khuẩn là ở lỗ mũi, có đến 20- 30% dân số mang tụ cầu khuẩn coagulase dương tính và khoảng 1/3 các trường hợp nhiễm bệnh là do tự nhiễm. Những người có các tổn thương chảy dịch và các chất tiết có mủ là nguồn thông thường làm lây lan dịch bệnh. Người mang vi khuẩn nhưng không có biểu hiện bệnh cũng là một nguồn lây bệnh. Vai trò truyền bệnh của các vật dụng bị nhiễm khuẩn cần đặc biệt lưu ý, bàn tay bẩn là nguyên nhân làm lây truyền bệnh quan trọng nhất. Bệnh hiếm khi lây truyền qua đường thở nhưng ở trẻ nhỏ có các bệnh do virut ở đường hô hấp thì cách lây truyền này vẫn có thể xảy ra.
Vệ sinh cá nhân tốt giảm nguy cơ mắc bệnh
Tụ cầu khuẩn là một trong những vi khuẩn có tính kháng kháng sinh rất cao, nhất là đối với những bệnh nhân đã sử dụng kháng sinh nhiều thì khi mắc tụ cầu khuẩn, chỉ định điều trị sẽ gặp nhiều khó khăn. Đối với những tổn thương khu trú trên da thì không cần phải điều trị kháng sinh trừ khi nhiễm khuẩn lan rộng hoặc có biến chứng. Tại chỗ mưng mủ chỉ cần làm sạch da tại chỗ bằng dung dịch sát khuẩn, dùng kháng sinh trực tiếp như bôi ngoài da. Các loại áp-xe cần rạch mủ và kết hợp dùng kháng sinh đường uống hoặc tiêm. Những loại nhiễm khuẩn huyết, viêm màng trong tim cần có những kháng sinh đặc hiệu và khi điều trị phải theo dõi chặt chẽ, nhất là đối với người cao tuổi, người bị vữa xơ động mạch hay đái tháo đường.
Theo BS. Nguyễn Thanh Hà/suckhoedoisong.vn