Cập nhật: 13/04/2016 09:04:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Xã Tích Sơn nay thuộc phường Tích Sơn, thành phố Vĩnh Yên. Sự tích của lễ hội đình Cả được lưu truyền như sau: vào đầu đời Trần, bảy anh em họ Lỗ đều giữ chức “điển bình” trong quân đội triều đình, cùng nhau coi giữ động Đinh Sơn (núi Đanh) và các xã xung quanh. Tháng Chạp năm Nguyên Phong thứ Bảy đời vua Trần Thái Tông (1257), quân Nguyên Mông xâm lược Đại Việt. Vua Trần xuất quân đánh giặc, bảy anh em họ Lỗ theo vua ra trận.

Sau khi đất nước thanh bình, bảy vị trở về quê, làng Bồ Lý ngày nay. Trên đường về tới núi Đanh thì hóa. Mộ táng ở dưới chân núi. Nhân dân tưởng nhớ bảy anh em họ Lỗ nên lập đền thờ, trong đó đình Cả - Tích Sơn là nơi thờ chính.Trong một năm, đình Cả có nhiều ngày lễ. Riêng ngày mồng Ba tháng Giêng, làng tổ chức lễ hội Thảo tặc khao binh, tái hiện khí thế ra trận giết giặc mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258). Lễ hội này được tổ chức tại đình Cả

Tích Sơn, chung cho năm làng nên gọi là lễ hội đình Cả năm làng Tích Sơn. Ngày mồng Hai Tết Nguyên đán, từ sáng sớm, tất cả dân làng và các trai đinh tề tựu ở sân chùa Ngũ Phúc (chùa chung của năm làng thuộc xã Tích Sơn) làm lễ “tụ quân”, tức là tập hợp quân số của hai giáp để vào tiệc. Các trai đinh vào phe được gọi là “quân” của thất vị Lỗ Đinh Sơn (bảy vị thần họ Lỗ trên núi Đanh), và chỉ những người này mới được vào “làm tiệc” - nữ không được tham gia.

Đêm mồng Hai, “quân” của hai giáp vào làm lễ Thánh và được ăn uống. Đang ăn dở dang thì có pháo lệnh, quân hai giáp liền chạy về điểm tụ quân. Quân giáp phía đông tụ ở đình Chợ, quân giáp phía tây tụ ở cầu Giáp Lão. Đến đầu giờ Hợi (21 giờ) mới tiến về nhà nuôi lễ ở đình Cả nghỉ ngơi.

Vào tiệc, giữa giờ Hợi (22 giờ) là khi sắp ăn đêm thì có tiếng reo hò. Quân bỏ bữa ăn, đốt đuốc xông thẳng vào “chuồng lễ”, phá “chuồng lễ”, đuổi bắt “ông lễ” (lợn lễ) trói lại, khiêng ra đình. Theo tục lệ, ai bắt được “ông lễ” sẽ khiêng đầu đòn thứ nhất (đi trước), đầu kia (đi sau) dành cho một “quân”. Có hai “ông lễ” của hai giáp. Lễ của giáp nào do quân giáp ấy bắt và đặt riêng theo giáp ấy. Lễ của giáp Đông đặt ở phía đông cửa thần điện, lễ của giáp Tây đặt ở phía tây cửa thần điện.

Vị chủ lễ vào “xin chân keo”, xin âm dương bốn lần:

Lần thứ nhất: gieo để cầu thủ dịch (gieo ba lượt). Mỗi giáp cử ra một thủ dịch. Từ thời điểm này, thủ dịch được đội khăn xếp, mặc áo thụng đỏ và giữ quan hệ tương thông thần - người. Trong tiệc lễ của đình có hai thủ dịch của hai giáp.

- Lần thứ hai: gieo để cầu mùa màng, gọi là “thanh bông hoa quả”.

- Lần thứ ba: gieo để cầu chăn nuôi phát triển sinh sôi.

- Lần thứ tư: gieo để cầu cho con người khỏe mạnh, bình yên. Sau các lễ cầu, “quân” được nghỉ ngơi, ăn “Cỗ bàn đọi” chờ sang canh.

Ngày mồng Ba, tiến trình tổ chức lễ bắt đầu từ nửa đêm. Chủ lễ vào lễ Thánh, xin phép làm tiệc. Hai thủ dịch vác long đao tiến ra đứng trước hai “ông lễ”, diễn động tác chém vào cổ lợn. Ngay lập tức, tiếng reo hò nổi lên; theo phân công, người của hai giáp xông vào cắt đầu lợn, mổ lợn lấy máu tươi (sinh huyết), thịt sống (sinh nhục) cho giáp mình để hiến lễ. Về cỗ, có hai loại: cỗ thủ dâng lên đình Cả; cỗ vọng tướng dâng lên miếu Tướng. Phần kết thúc của lễ tiệc “thảo tặc khao binh” là tế cờ.

Trước cửa đình, “quân” của giáp nào xếp hàng theo giáp ấy. Giáp Đông đứng về bên đông, giáp Tây đứng về bên tây. Từ trong đình, thủ dịch của hai giáp bưng hương án, che lọng, cầm cờ, khiêng trống, chiêng tiến ra ban thờ ở góc phía bắc của sân đình hướng về phía làng Bồ Lý, tức mô cờ. “Quân” của hai giáp ào ào chạy ra mô cờ, đứng bái vọng về quê hương của bảy vị là làng Bồ Lý, nay là xã Bồ Lý (huyện Tam Đảo).

Sau mục tế cờ, quân hai giáp kéo vào trước cửa đình thực hiện cuộc kéo co, gọi là “sỏ giải”. Đến đây lễ hội kết thúc. Đặc điểm của lễ hội này là phần lễ không rước kiệu, không lễ tế. Vị chủ lễ chỉ “xin chân keo” để chuyển các thứ mục của lễ hội.

Phần cuối cùng của lễ hội - ăn uống, gọi là “tán cỗ”. Tán cỗ là chế biến các đồ lễ sống thành cỗ chín để “thụ lộc”. Công việc này do ban làm cỗ đảm nhiệm. Đồ nấu chín được chia thành các mâm. Mỗi mâm cỗ gồm: một mô xôi nếp, một mô thịt luộc chín, một mô cơm xén thành khuôn. Cỗ ngồi ba người theo từng bàn của hai dõng trong hai giáp Đông và Tây.

ST

Tệp đính kèm