Thời kỳ đồ đá đã lùi xa vào quá khứ, hàng vạn năm rồi. Chúng ta hiện đang sống trong thời kỳ đồ điện tử! Nhưng mỗi gia đình ngày nay nhất là ở nông thôn vẫn còn không ít các vật dùng bằng đá. Từ cái cối xay bột, hòn đá mài dao, cối giã cua đến cái máng lợn ăn... Trước những ngôi nhà cổ, từ bao đời nay vẫn khiêm nhường có hai con chó đá ngồi canh cổng với sự trung thành đến vĩnh cửu.
Trên quê hương ta ai cũng biết những tấm bánh ngon nhất thường được làm từ bột gạo xay bằng cối đá. Khoanh giò lụa hảo hạng cũng phải được giã bằng chày gỗ nhãn trong chiếc cối đá xanh. Trong dân gian, những nơi linh thiêng như đình chùa đền, miếu không thể thiếu những đồ thờ bằng đá. “Nồi đồng cối đá” luôn là tiêu chuẩn chất lượng để so sánh cho các vật dụng trong thời đại hiện nay.
Từ lâu người dân miền Bắc nước ta đã rất quen dùng đồ đá nhưng ít ai biết đến nơi đã sản sinh ra chúng. Đó là vùng núi Thét thuộc xã Hải Lựu, huyện Sông Lô. Nơi đây có khu Đồng Trăm với bạt ngàn đá nổi vân màu ngũ sắc dùng làm vật liệu trang trí trong xây dựng. Khu Đồng Trổ đầy rẫy đá xanh đá xám với nhiều màu sắc từ trắng ngà, gan gà, da cóc... hợp tiêu chuẩn lý hoá để cho những bàn tay vàng của người thợ đá đến trổ tài từ ngàn đời nay từng làm ra vô vàn sản phẩm bền chắc, tồn tại song hành cùng thời gian, đã và sẽ là cổ vật, trở thành đối tượng nghiên cứu của ngành khảo cổ học.
Người dân xã Hải Lựu ở dưới chân núi Thét đa phần lấy công việc đục đẽo đá làm nghề phụ. Hàng năm sau hai vụ chiêm - mùa, mọi người lại cơm đùm cơm nắm vác đòn ống, dây thừng toòng teng, túi dụng cụ đồ lề. Sáng leo lên ngang sườn núi, ngắm nghía chọn lựa từng vỉa đá rồi đục đẽo gọt dũa những tảng đá gồ ghề muôn hình vạn trạng trở thành các vật dụng như ý để rồi khi mặt trời khuất núi cùng nhau khuân vác các đồ đá nặng trịch đó về nhà. Những khi thời tiết thuận lợi, có thể dựng lều lán nghỉ lại qua đêm để rồi sau đó phải huy động cả nhà dành ra hàng buổi mới khuân hết sản phẩm xuống núi. Rồi lại hàng tuần, hàng tháng dong duổi xuống thuyền ngược sông Lô, xuôi sông Hồng hoặc theo xe lăn bánh gập gềnh qua miền sơn cước... mang đồ đá đi khắp nơi tiêu thụ. Bán hết hàng lại quay về làm lại từ đầu.
Người thợ đá lấy đó làm niềm vui trong lao động giữa lưng chừng núi cao lộng gió, dù có bị mảnh đá văng ra làm sây sát chân tay, bụi đá làm mắt đau họng rát. Chỉ với cái búa, vài cái đục, cái choòng bằng sắt cộng thêm cái vồ trắng gỗ lim gỗ sén với chiếc com pa tự tạo, đoạn dây dọi đơn sơ, người thợ đá Hải Lựu từ bao đời nay đã cung cấp đồ đá cho khắp mọi nơi. Những sản phẩm lớn như voi đá, ngựa đá, toà sen tượng phật chân cột đình, bia văn tự, đỉnh lư hương, thắp nhang sân chùa, nhịp cầu bằng đá... khách hàng phải vẽ mẫu và đặt trước để bố trí cả hiệp thợ cùng làm cùng di chuyển tác phẩm đã hoàn thành xuống núi an toàn về nơi quy định. Có điều lạ là nghề đục đẽo đá ở đây tuy cũng dùng đục bằng thép cứng nhưng lại đập bằng vồ gỗ nên trong lúc làm việc dù rất đông thợ cùng làm nhưng cũng chỉ phát ra những tiếng trầm đục rất khiêm nhường chứ không có âm thanh chát chúa như những nghề đục đẽo khác. Đó cũng là đặc tính của người dân xã Hải Lựu.
Nhiều người thợ ở đây đã được tôn vinh có bàn tay vàng với trình độ nghệ nhân. Mặc dù làm cật lực, mỗi ngày công cũng chỉ được trên dưới 20.000 đồng. Mấy năm gần đây địa phương đã mời nghệ nhân Nguyễn Sang chuyên làm đồ đá mỹ nghệ ở vùng núi đá Ngũ Hành Sơn ra dạy nghề cho lớp trẻ thì giá trị ngày công của thợ đá ở đây mới được nâng cao lên chút ít. Tuy vậy ai nấy vẫn rất quý trọng nghề truyền thống của làng. Càng yêu nghề người thợ càng yêu ngọn núi đá của quê hương đã cho nguyên liệu để hành nghề. Nhiều như đá núi nhưng không ai lãng phí đá. Dù khai thác được hòn đá to hay viên đá nhỏ, người thợ đều phải có tính toán chi li xem từng thớ đá để cho ra những sản phẩm thích hợp. Cũng như người thợ mộc, thợ đá cũng phải ba lần đo mới có một lần quyết định vạch lỗ cắm choong để tách từng tảng đá ra mà đục đẽo.
Vừa qua chính quyền địa phương đã cho thành lập doanh nghiệp khai thác đá xẻ với hơn 200 công nhân có sự hỗ trợ của máy móc hiện đại, mỗi năm đã xuất khẩu hàng ngàn mét khối đá ở dạng nguyên liệu. Những người thợ đá ở đây luôn cảm thấy tiếc rẻ và cũng cho rằng đó chỉ là giải pháp tình thế tạm thời để vượt qua thời kỳ xoá đói giảm nghèo.
Chúng ta đang tiến tới xây dựng nền công nghiệp hoá - hiện đại hoá công nghệ xi măng tuy có nhiều ưu điểm nhưng vẫn không thể thay thế chất liệu đá trong đồ dùng bằng đá mang đậm nét truyền thống văn hoá trong mỗi gia đình ở nông thôn. Những người thợ đá ở xã Hải Lựu vẫn cần cù đục đẽo để cho ra đời mỗi năm hàng vạn đồ đá cho nhân dân khắp vùng, vừa có việc làm lúc nông nhàn vừa góp phần giữ gìn nghề truyền thống mang đậm nét bản sắc dân tộc. Nhiều khách nước ngoài qua đây đã mua nhiều đồ đá về làm quà kỷ niệm bởi họ hiểu rõ giá trị của các sản phẩm mang tính chất vĩnh cửu này. Chúng ta càng phải giữ gìn nghề của cha ông để truyền lại cho mai sau.
ST