Một trong những trọng điểm của không gian văn hóa cổ truyền chính là cây cối trong di tích. Cây cối là bộ áo của di tích, vừa là để trang hoàng cho khuôn viên di tích, vừa có tác dụng che chắn, đồng thời lại chính là yếu tố làm cho di tích được hòa quyện vào môi trường, không cách biệt với không gian cảnh quan xung quanh. Cây cối cũng là một điểm nhấn mạnh về tính tươi tốt, tính thiêng đất lành cho muôn loài của di tích. Tuy nhiên không phải di tích nào cũng phải có đầy đủ các loài, mà tùy theo từng loại hình kiến trúc, người xưa đã chọn trồng những cây tương ứng, thích hợp với dáng vẻ, ý nghĩa và giá trị của từng loại hình di tích đó.
Với loại hình đình làng, xuất thân là nơi ban bố chính lệnh của triều đình, sau đó được đưa vào thờ cúng Thành hoàng làng, đình còn là nơi công cộng để giải quyết việc làng. Do vậy, đình làng là nơi đan xen giữa uy lực đại diện của nhà nước với cuộc sống dân dã, gắn bó với đời thường, vì thế nó không tách biệt với xã hội thường nhật. Đồng thời, các ngôi đình thường có khuynh hướng phô trương vị thế với những bộ mái lớn, những góc đao cong vút và mặt tiền bề thế ra bên ngoài. Vì các lý do như vậy, người ta ít trồng các loại cây lớn ở sát mặt trước cửa đình, mà thường để nơi đó là một khoảng sân rộng, vừa dùng cho việc chung, vừa tạo sự khoáng đạt, rộng lớn. Cây lớn trong đình thường chỉ được trồng ở phía sau và hai bên đình với những khoảng cách nhất định, nếu trồng ở phía trước đình thì chỉ trong trường hợp ở bên hồ bán nguyệt. Nhìn chung, người xưa không muốn ngôi đình ẩn hẳn mình trong lùm cây. ở đây thường có hai dạng cây cơ bản, một dạng là loại um tùm tạo bóng mát như: lim, si, sanh, đa, muỗm; hai là loại cây tạo dáng, hoặc có hoa đẹp như tùng, phượng hay một số loài cây hoa nhỏ. Đôi nơi với ý thức thực dụng người ta cũng trồng cây ăn quả và cây lấy gỗ ở ven hồ nước trước đình như: nhãn, vải, xoan.
Với chùa và đền thì cây cối thường có nhiều ý nghĩa rõ ràng hơn. Do đặc trưng khi vào khuôn viên chùa hay đền (nhất là chùa), người ta có cảm giác như bước vào một không gian khác, nơi đó những gì nhuốm vẻ trần tục đều được gạt bỏ, dừng lại, dành chỗ cho tâm tư trôi chảy, thông linh với thế giới thiêng liêng thoát tục. Cây cối ở đây thường tạo nên những cảnh vật với đường nét hài hòa, la đà bên những mặt nước trong trẻo, góp phần dẫn dắt con người hòa cùng với trời đất, đến với cõi tinh khiết, thiêng liêng. Cây cối ở đền và chùa thường hòa cùng với kiến trúc để tạo thành một tổng thể thống nhất. ở đây, di tích dù chiếm vị trí trung tâm nhưng vẫn như thu mình lại trong cây cỏ, như để trả cho không gian tự nhiên sự vĩnh hằng. ở các ngôi chùa thường trồng nhiều cây lớn và chúng thường được gán cho một ý nghĩa vượt ngoài kiếp sống bản nguyên, trong đó nổi lên là các cây: bồ đề, mít, đại, tre trúc, sung, muỗm, cau... Trước đây, cây cối trong chùa đã tạo nên một thế giới tươi tốt, góp phần đối trọng với cuộc sống ồn ào ngoài đời. Còn ở các ngôi đền, do gắn với đời sống tâm linh thường nhật nên ngoài một số cây thiêng người ta chú ý nhiều hơn tới các loại hoa cỏ như: hoa quỳnh, cành giao, ngâu, mai, trúc, sen, lựu, tường vi để tạo cảnh quan, thêm hương sắc cho không gian di tích.
Đến nay, theo dòng chảy lịch sử, những biến động về xã hội và những thay đổi trong quan niệm của cộng đồng dân cư, không gian tâm linh của di tích ngày một phai nhạt, giảm linh, người ta cũng đưa vào các di tích nhiều loại cây ít có giá trị văn hóa. Vì vậy, sau đây, nhân dịp “mùa xuân là Tết trồng cây”, xin được điểm qua ý nghĩa một số loại cây thường được người xưa trồng trong các di tích để tham khảo, hòng góp phần nhỏ cho tinh thần tìm về những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt.
Cây đa, si: đây là hai loại cây được coi như là nơi ngự của các thần linh. Đồng thời, cũng là nơi nương tựa dựa dẫm của các linh hồn bơ vơ, nhờ gần với đền miếu mà các vong linh ấy được nương dựa vào thần mà hưởng chút hương lộc của chúng sinh. Các cây này càng khúc khuỷu rậm rạp thì càng được coi là linh thiêng. Vì thế cây si thường được trọng dụng nhiều hơn do có nhiều rễ buông, nhiều thân.
Cây đề /bồ đề: còn được gọi là giác thụ, đại thụ, là hiện thân của sự giác ngộ, sáng suốt, minh triết, tượng trưng cho đạo Phật vì đạo Phật lấy trí tuệ làm đầu, nhờ trí tuệ mà giác ngộ, diệt trừ được vô minh là mầm mống của mọi tội ác. Cây đề tượng trưng cho Tri, Trí, Đạo và Giác nên thường được trồng ở phía trước, bên trái cửa chùa. Cây đề hay bồ đề còn được gọi là Pippala (Tất Bát La) gắn với tích truyện về Thích Ca Mâu Ni ngồi tham thiền dưới gốc cây này mà giác ngộ, người ta còn gọi là chứng quả bồ đề. Vì vậy, cây bồ đề được trồng ở chùa còn là biểu tượng cho mục đích của các kiếp tu.
Cây sung: thường được trồng ở phía trước, bên trái hoặc cạnh ao chùa. Cây sung thường được quan niệm là biểu tượng của sự sung túc. Truyện về đức Phật cũng kể rằng: bà Ma Gia đã vịn cành cây Vô ưu mà sinh ra đức Phật từ nách của mình. ở nước ta, cây sung được coi như loài cây thay thế cho cây Vô ưu. Cây này tượng trưng cho sự diệt trừ 108 điều phiền não, là biểu tượng cho tinh thần của thế giới nhà Phật, nhắc nhở các kiếp tu và đem phúc tới cho các phật tử.
Cây đại: được trồng ở hai bên đường vào, sát ngay phía trước hoặc ở hai bên di tích, ít khi được trồng ở phía sau. Loài cây này có một vẻ đẹp rất thoát tục với hình thức những thân cây trụi lá và những chùm hoa trên cao, tạo cảm giác linh thiêng, mênh mang trong không gian của các kiến trúc tôn giáo cổ truyền. Cây đại thường thấy rất phổ biến ở các chùa. Theo nhà Phật thì cây đại là một cây thiêng trong hệ cây thiên mệnh (nghĩa là sinh khí, linh hồn của vũ trụ, trời đất). Trong quan niệm của người xưa thì loài cây này có khả năng hút sinh lực từ bầu trời chuyển xuống cho đất và nước để khởi phát một cuộc sống viên mãn.
Cây mít: tên tiếng ấn là Paramita (đọc theo phiên âm Hán Việt là Ba La Mật Đa) có nghĩa là: cứu cánh tới cùng của mọi sự đến bờ giác ngộ nơi không còn sinh tử lo âu, đưa người ta ra khỏi bến mê đến bờ giác ngộ Cây mít vì thế tượng trưng cho đại trí tuệ, nhắc nhở con người cần phải tĩnh tâm trên con đường trí tuệ (việc lấy lá mít lót oản cúng Phật có lẽ là dựa vào ý nghĩa này). Cây mít thường được trồng rất phổ biến trong các chùa, thường được trồng ở trong vườn chùa, ở hai bên và phía sau chùa. Mít cho quả làm các món chay. Gỗ mít còn được dùng để tạc tượng và làm vật liệu tu bổ di tích.
Cây gạo: thường được trồng nhiều ở các đền, quán hoặc những ngôi chùa vừa thờ Phật vừa thờ Thánh. Người ta cho rằng cây gạo với những chiếc gai ở thân cây cũng được coi là chiếc thang bắc lên trời, là cái gạch nối trong mối giao hòa giữa cha trời và mẹ đất.
Cây thông /tùng: tượng trưng cho người quân tử, học rộng tài cao, cũng là biểu tượng cho sự kiên tâm giữ vững được phẩm chất cao đẹp của mình trước phong ba bão tố. Thông là biểu tượng của thánh nhân, mang cốt cách thanh tao, thoát tục, gần gũi với tâm hồn vô vi của đạo Lão và tư tưởng của Thiền tông. Cây thông với dáng đứng thẳng của mình còn được coi như là gạch nối giữa trời và đất, để cho âm dương giao hòa. Thông còn là hiện thân của trí tuệ, sự thông hiểu. Và đó chính là đạo, là con đường nhắc nhở và dẫn dắt kiếp tu tới siêu thoát.
Cây trúc /tre: là những loài cây có nhiều ý nghĩa vượt ra ngoài lẽ tự nhiên. Tre /trúc mọc quần tụ đông đúc được cho là biểu trưng của sự hợp quần của các tín đồ. Hơn nữa, cây trúc với gióng thẳng từ xưa đã được coi là tượng trưng cho người quân tử có phẩm chất ngay thẳng cao thượng. Ngoài ra, những thân tre, trúc nhiều đốt còn mang tư cách là chiếc thang lên trời trong ước vọng thông linh trời đất, tre thường được dùng để treo cành phan. Với đạo Phật, tre/trúc với ruột rỗng còn là biểu tượng của tâm không dẫn dắt Phật tử trở về với bản thể chân như để thấy Phật tâm. Trong tín ngưỡng dân gian chịu ảnh hưởng của đạo Phật thì tre /trúc còn thông qua hình dáng vươn cao đu đưa theo gió mà có ý nghĩa tùy duyên mà hóa độ.
Cây muỗm /sấu: thường được trồng nhiều ở các di tích, đặc biệt là các chùa. Ngoài tính chất hữu dụng trong đời sống thường nhật, các cây um tùm này còn có ý nghĩa là nơi nương dựa của các vong hồn, nhờ trú ngụ ở đây mà các vong hồn có thể được nghe kinh, nương cửa phật mà siêu sinh tịnh độ.
Ngoài những cây phổ biến trên, các loài cây như lim, sao, xà cừ, nhãn cũng tạo bóng mát và góp phần cho di tích có một không gian xanh tươi, làm tĩnh tại tâm hồn những người hành hương.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về đời sống văn hoá cổ truyền nói chung, tôn giáo tín ngưỡng nói riêng của người Sán Dìu ở miền núi tỉnh Vĩnh Phúc, chúng ta dễ nhận ra cốt lõi của nó là truyền thống nhân bản. Bởi vì ngay trong tang lễ (ma chay) của người Sán Dìu có những bài mo cúng cho người chết, ngoài sự thể hiện tình cảm thương tiếc của người sống đối với người đã quá cố, thì thông qua thầy mo, người chết cũng nhắn nhủ và khuyên dạy người sống với nhiều điều tốt lành như: ăn ở, đối nhân xử thế trên đời phải có nhân nghĩa, kính trên nhường dưới, cha mẹ phải thương yêu con cái; ở hiền gặp lành, không được làm điều gì độc ác trái với lương tâm đạo đức của cha ông truyền lại.
Trong đám cưới của người Sán Dìu cũng vậy, con gái trước khi về nhà chồng đều phải làm lễ trước bàn thờ tổ tiên, phải lễ sống (Bại slang) bố mẹ, ông bà và những người trên, không nên quy chụp đấy là những tục lệ cổ hủ vì nó bao hàm ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện sự biết ơn của người con gái đối với những người đã sinh thành dưỡng dục mình khôn lớn. Ngoài ra còn rất nhiều điều quý báu trong kho tàng văn hoá dân tộc như văn học dân gian, y học dân gian, nghệ thuật dân gian… mà chúng ta cần phải tiếp tục khai thác, sưu tầm và ghi chép lại cho muôn đời sau.
Đối với người Sán Dìu, quan niệm “bại slang” có nghĩa là lễ sống, người làm lễ phải trực tiếp chắp tay, quỳ lạy trước mặt người sống ba lạy và xin được nghe những lời dạy bảo quý báu của các bậc cha mẹ, ông bà được lạy. Tục lễ sống thường được tiến hành vào các dịp có ông bà già đã cao tuổi, sức đã yếu không thể qua khỏi (sắp chết), trong dịp này, con cháu họ hàng những người thuộc chi, cành dưới dòng họ đều tổ chức nhau đến thăm hỏi động viên ông bà sống thêm tuổi cùng với con cháu, để con cháu được mát lòng mát dạ dưới cây cao bóng cả của các cụ ông, cụ bà. Để được lễ sống các cụ già đã yếu mệt sắp về với tổ tiên thì con cháu cũng không phải tổ chức lễ nghi phiền hà tốn kém. Ngoài việc chuẩn bị dăm ba gói bánh kẹo, nải chuối, gói đường gọi là có hình thức thăm hỏi, còn thực ra các cụ cũng chẳng ăn uống được gì nữa, với lời nói chân tình xúc động, những người đến lễ sống thường tự bộc bạch nói lên tình cảm của mình đối với cụ già lúc còn sống khoẻ, mong cụ ông, cụ bà ăn được, ngủ được, khoẻ mạnh để vui vầy cùng con cháu, để con cháu được nhờ vả (tiếng Sán Dìu gọi là phanh slạy) ông bà lúc trở trời trái gió, gặp khó khăn trong cuộc sống như ốm đau bệnh tật… sau đó con cháu theo thứ tự trước sau, xếp hàng vào lễ sống cụ ông cụ bà, hai tay chắp trước ngực quỳ xuống lạy ba lạy với khuôn mặt nghiêm trang và kính trọng, rồi đứng lên nghe lời dạy bảo ân nghĩa chí tình của các cụ. Nội dung lời dạy bảo của các cụ thường ngắn gọn nhưng chân tình như nhắc nhở con cháu phải có đạo đức với ông bà và bố mẹ già, chăm sóc bố mẹ lúc ốm đau bệnh tật, phải đoàn kết anh em trong nhà như gà cùng một mẹ, như bầu bí chung một giàn, không được làm trái đạo đức lương tâm con người, đoàn kết làng trên xóm dưới, phải cư xử với nhau như anh em ruột thịt, tối lửa tắt đèn có nhau, vui buồn có nhau và sống chết có nhau. Sau đây xin trích một số bài nói có nội dung thường được đọc trong tục lệ “lễ sống” của người Sán Dìu ở miền núi tỉnh Vĩnh Phúc do ông Lâm Văn Bế - 88 tuổi ở xã Minh Quang - Tam Đảo - Vĩnh Phúc đọc và dịch ra tiếng phổ thông: ông ơi (bà ơi), cháu ở xóm Lưu Quang - xã Minh Quang - huyện Tam Đảo - tỉnh Vĩnh Phúc, nghe tin cụ ông (cụ bà) ốm đau, mệt nhọc đã lâu, chúng cháu đến thăm hỏi không có gì nhiều gọi là thành tâm có bao bánh, gói kẹo, nải chuối mời ông (bà) ăn để sống được trăm tuổi, để con cháu được nhờ.
Còn ông bà tuy đã già yếu nhưng khi nghe được hỏi thăm sức khoẻ của con cháu thì nét mặt dần trở nên vui vẻ, rạng rỡ, rồi ngồi dậy cảm ơn những lời tốt đẹp của con cháu và lúc ấy các cụ ông cụ bà thường nói một đôi lời dạy bảo nhăc nhở con cháu như sau:
Nay ông bà đã già yếu lắm, con cháu phải khoẻ mạnh, không được cãi chửi nhau, anh em chú cháu phải đoàn kết như gà chung một mẹ, bầu bí chung một giàn thì phải dựa vào nhau mà sống. Đừng có bao giờ làm cho bố mẹ, làng xóm phải đau lòng, người nói phải có người nghe, đồng lòng hơn ra sức, con cháu ạ…
Điều đáng chú ý là theo tâm linh của người Sán Dìu, thì những điều người sống nói với người sắp tạ thế, hoặc người sắp qua đời nói với người đang sống, thường là những lời nói chân thành và thật thà nhất, nặng về tình cảm đạo đức, đúng với ý nguyện của người sống và người sắp chết, là những lời răn dạy quý báu nhất để làm người. Người Sán Dìu cho rằng: Hình ảnh một người già yếu sắp qua đời lại tỉnh táo, bình tĩnh nói được những câu rành mạch mang đầy tính triết lý, đạo đức, răn dạy những bài học làm người cho con cháu, thì cũng như ngọn đèn cạn dầu khi sắp tắt còn bùng cháy một lần cuối cùng, nhưng cũng là lần sáng rõ nhất để nói hết những tâm tư tình cảm, bài học đạo đức của cả cuộc đời mà các cụ đã trải qua để làm gương cho con cháu học tập và noi theo. Đồng thời qua động tác lễ sống, con cháu phải lễ ba lần liên tiếp rất kính cẩn và nghiêng mình trước mặt ông bà đang hấp hối, cũng giống như một nguồn thuốc bổ vô hình giúp người ốm thêm sức lực và tỉnh táo hơn. Trong mỗi lần lễ sống như vậy, con cháu cũng cảm động rơi nước mắt, còn ông bà thì cũng được tăng cường sức khoẻ, xúc động và cũng trào ra nước mắt, tạo ra khung cảnh chan chứa tình cảm, con cháu kính trọng ông bà tổ tiên sâu sắc.
Thực tế trong nhiều trường hợp diễn ra tục lệ lễ sống của người Sán Dìu, cũng đã tạo ra một phép màu kỳ lạ, cũng có giá trị như liều thuốc bổ quý giá cho những ông bà đã quá yếu mệt vẫn có thể “khoẻ khoắn và vui vẻ hơn”, vì được con cháu đến lễ sống thì các cụ dù già yếu đến đâu cúng phải cố gắng ngồi dậy, hoặc dựa lưng vào con cháu để nói những lời dạy bảo ân tình.
Tóm lại, tìm hiểu tục lệ “Lễ sống” của người Sán Dìu, nguyện vọng của đồng bào là muốn bảo vệ giữ gìn các phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc; đồng thời phải nhanh chóng xoá bỏ những tục lệ lạc hậu, không còn phù hợp với nếp sống văn hoá mới hiện nay, góp phần xây dựng đời sống văn hoá dân tộc nhiều hương sắc đã được tạo dựng và phát triển vững bền, trong đó có tục lệ “Lễ sống” (Bại slang) của người Sán Dìu.
ST