Cập nhật: 17/07/2016 09:58:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Đền Triệu Thái xã Đồng Ích, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Đã xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 259- VH/QĐ ngày 12 tháng 02 năm 1994

Đền Triệu Thái thờ  Lưỡng quốc Trạng nguyên Triệu Thái. Đền có diện tích rộng khoảng 500m2, bằng phẳng, với kiến trúc bằng gỗ.

Lưỡng quốc Trạng nguyên Triệu Thái là người xã Hoàng Chung, huyện Lập Thạch, thuộc Tây Đạo (nay là thôn Hoàng Chung, xã Đồng Ích). Ông xuất thân từ một gia đình nông dân, được theo học trường Nho dưới thời thuộc Minh. Nhưng vì trong nước lúc đó chỉ là quận, huyện thuộc sự thống trị dưới triều đình Vĩnh Lạc (1403-1424), nên về thể chế không thể tổ chức được hai kì thi đại khoa tuyển chọn tiến sĩ là thi Hội và thi Đình (Giao chỉ quận chỉ có thẩm quyền tổ chức kì thi Hương, tuyển chọn cử nhân và sinh đồ).

Muốn ra làm quan, không có con đường nào khác, ông Triệu Thái phải lặn lội sang tận kinh đô Trung Quốc, lúc đó là Yên Kinh để ứng thi. Ông đã thi đỗ tiến sĩ dưới triều vua Vĩnh Lạc, rồi nhận chức quan học sĩ Viện Hàn lâm trong triều đình Trung Quốc. Năm 1428, khi nước nhà đã giành độc lập, ông mới xin phép nhà vua, với lí do về quê thăm cha mẹ, rồi ở lại quê nhà.

Thời kì này ông có công lao lớn với dân làng là ông đã quy hoạch làng Hoàng Chung với một con đường ở bìa làng, nối liền 2 làng cổ là Đại Lữ và Tiên Lữ giữa cánh đồng chiêm trũng, các ngõ rẽ đều vuông góc với đường trục, có khoảng cách hai nhà giáp lưng vào nhau, tạo thành ngõ xương cá, rất tiện cho sinh hoạt và trị an. Giáp đường về mặt phía Tây Nam, chia thành từng ô lấy đất đắp nền làng, trồng tre chắn gió, rào làng. Các ô đất trũng trở thành ao, dân làng chuyên cấy rau cần về mùa đông, cũng là một nguồn thu lợi về kinh tế.

Ngày 25 tháng 2 năm Kỷ dậu (1429), Hoàng đế Lê Lợi tổ chức khoa thi Minh Kinh, để tuyển dụng người tài giỏi “Hiền, Lương, Phương, Chính” (tài giỏi, lương thiện, đức hạnh, ngay thẳng) bổ sung vào hàng ngũ quan lại trong triều đình sau chiến tranh giành độc lập.

Triệu Thái dự thi với tư cách là người ẩn sĩ và đã đỗ danh sách thứ nhất. Sau khi đỗ, ông nhận chức quan Thị Ngự sử (Lê Thánh Tông đổi gọi Đô Ngự Sử). Ông được Hoàng đế Lê Lợi giao cho việc định ra luật lệ của nhà Lê. Những đạo luật ban hành năm Canh Tuất (1430) và chương về tiền sản gồm 14 điều bổ sung năm Kỷ Tỵ thời Thái Hoà (1449) đều có công đóng góp của ông.

Sau khi ông mất được ban tên thuỵ là Cự Tuấn, được dân xã Hoàng Chung suy tôn, phối thờ ở đình làng cùng với 3 vị thành hoàng Đông Nha Tam Vị Đại Vương và được triều đình phong “Thần”. Tên ông có trong ba đạo sắc hợp phong và một đạo biệt phong là sắc triều Nguyễn, thờ ở đình.

ST

Tệp đính kèm