Polyp túi mật gặp ở mọi lứa tuổi (tỷ lệ gặp polyp túi mật khoảng từ 0,3 - 9% trong cộng đồng), đa số polyp túi mật thuộc dạng lành tính...
Khi bị polyp túi mật cần được theo dõi bằng hình thức khám bệnh định kỳ.
Polyp túi mật gặp ở mọi lứa tuổi (tỷ lệ gặp polyp túi mật khoảng từ 0,3 - 9% trong cộng đồng), đa số polyp túi mật thuộc dạng lành tính, tuy vậy, có một số có thể trở thành ác tính. Vì vậy, khi bị polyp túi mật cần được theo dõi bằng hình thức khám bệnh theo định kỳ.
Polyp túi mật là gì?
Polyp túi mật là tổn thương dạng u hoặc giả u phát triển trên bề mặt niêm mạc túi mật, là hình thái tổ chức xuất phát từ thành túi mật phát triển lồi vào trong lòng túi mật. Mọi lứa tuổi có thể bị polyp túi mật, nhưng chủ yếu gặp ở người trưởng thành, có tác giả cho biết thường gặp ở phụ nữ độ tuổi 30 - 50.
Tại sao bị polyp túi mật?
Có nhiều yếu tố thuận lợi đối với sự hình thành polyp túi mật như rối loạn chức năng gan - mật, rối loạn đường máu, rối loạn mỡ máu, gan nhiễm mỡ, nhiễm virut viêm gan (A, B, C, D, E), người thừa cân, béo phì, chế độ dinh dưỡng không phù hợp (ăn nhiều mỡ, phủ tạng động vật,...). Thường gặp các dạng polyp túi mật lành tính (u tuyến, u cơ, u cơ - tuyến, u mỡ, đa số là u giả cholesterol).
U giả cholesterol là gì?
Polyp giả thường là polyp cholesterol do những tinh thể cholesterol bám dính trên thành túi mật như “thạch nhũ”. Polyp cholesterol thường nhỏ dưới 10mm, có cuống nhỏ dễ rứt ra khỏi niêm mạc. Theo tổng kết của một số nước trên thế giới, cứ 100 người bình thường, nếu tiến hành làm siêu âm gan mật, sẽ phát hiện từ 1-4 người có polyp túi mật, chiếm tỷ lệ khoảng từ 1-4%. Đại đa số polyp túi mật không phải là dạng u tân sinh mà chỉ là “u giả” do lắng đọng cholesterol hoặc viêm nhiễm. Các loại này gần như không có khả năng trở thành ác tính (ung thư). Vì vậy, không nên quá sợ hãi khi phát hiện polyp túi mật, nhất là loại có kích thước dưới 10mm.
Số lượng và kích thước của polyp túi mật cũng khá đa dạng, nhưng thường gặp nhất là chỉ có một polyp và kích thước nhỏ hơn 10mm. Một số người có thể có nhiều polyp túi mật và có thể có kích thước khá lớn (trên 20-40mm). Một số trường hợp vừa có polyp vừa có sỏi túi mật. Đa số các trường hợp polyp túi mật là lành tính, tuy vậy, một số polyp túi mật có chân lan rộng, hình không đều đặn, phát triển nhanh có thể là polyp ác tính, những trường hợp này cần phẫu thuật cắt bỏ.
Biểu hiện của polyp túi mật như thế nào?
Hầu hết các trường hợp polyp túi mật không có triệu chứng gì, vì vậy, thường được phát hiện một cách tình cờ qua khám tổng thể hoặc khám một bệnh nào đó có siêu âm gan, mật.
Tỷ lệ polyp túi mật có triệu chứng chỉ chiếm khoảng từ 6-7% và thường gặp ở người có polyp kích thước lớn. Triệu chứng hay gặp nhất là đau tức, co cứng nhẹ vùng dưới sườn phải hoặc đau vùng thượng vị kèm theo có biểu hiện buồn nôn hoặc nôn, một số ít có biểu hiện đầy hơi, trướng bụng, chậm tiêu. Tuy vậy, polyp túi mật ít khi có triệu chứng cấp tính như sỏi mật hoặc viêm đường mật (đau, sốt, vàng da). Các triệu chứng của polyp túi mật khá giống với sỏi đường mật, sỏi túi mật mạn tính hoặc bệnh lý dạ dày - tá tràng.
Để chẩn đoán polyp túi mật, cần có các xét nghiệm và các cận lâm sàng hỗ trợ (xét nghiệm chức năng gan mật, sinh thiết, siêu âm nội soi, nội soi dạ dày - hành tá tràng, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ...). Trong đó siêu âm chẩn đoán là một kỹ thuật có giá trị lớn trong chẩn đoán polyp túi mật. Tuy vậy, siêu âm không thể phân biệt được là polyp lành tính hay ác tính để có chỉ định điều trị phẫu thuật. Vì vậy, cần dựa vào nhiều kỹ thuật khác nhau để hỗ trợ cho chẩn đoán.
Phương pháp điều trị
Khi bị polyp túi mật lành tính không có chỉ định điều trị gì (cả nội khoa và ngoại khoa), tuy vậy, người bệnh cần khám bệnh theo định kỳ để theo dõi. Với polyp có kích thước lớn, chân lan rộng, phát triển nhanh hoặc nhiều polyp, nên nghe theo tư vấn của bác sĩ khám bệnh là có nên cắt bỏ hay không, bởi vì nếu không loại bỏ có thể thành u ác tính (ung thư).
Nguyên tắc phòng bệnh
Mọi người, nhất là người lớn nên khám bệnh định kỳ để được phát hiện các bệnh về gan, mật (gan nhiễm mỡ, rối loạn men gan mật, sỏi, viêm gan...), rối loạn đường máu, rối loạn mỡ máu... Cần có chế độ ăn uống hợp lý, không nên ăn nhiều các loại phủ tạng động vật (tim, gan, lách, thận, lòng...). Cần vận động cơ thể thường xuyên bằng cách chơi thể thao, đi bộ... để hạn chế tăng cân, khí huyết lưu thông.
PGS.TS.BS. Bùi khắc Hậu
Theo suckhoedoisong.vn