Nhà nước có chính sách cụ thể thì nông dân sẵn sàng sản xuất thông minh, làm ít vụ, chọn giống tốt… nhưng hiệu quả, giá trị cao.
Cán bộ khuyến nông, nhà khoa học nông nghiệp và nông dân sản xuất giỏi của Việt Nam đi tham quan, học tập kinh nghiệm sản xuất lúa tại Thái Lan.
Khép lại vụ hè thu triển khai thành công chương trình Canh tác lúa thông minh ứng phó với biến đổi khí hậu, trung tuần tháng 11 vừa qua, Công ty cổ phần Phân bón Bình Điền đã tổ chức đưa gần 80 người, là cán bộ khuyến nông, nhà khoa học nông nghiệp và nông dân sản xuất giỏi tại các mô hình ở 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đi tham quan, học tập kinh nghiệm sản xuất lúa tại Thái Lan.
Sau 2 ngày thăm, làm việc với Trung tâm Kiểm soát Sinh học tỉnh Chon Bu Ri, cũng là trung tâm cấp vùng của 9 tỉnh miền Đông; Trung tâm Sing To Thong, là chi nhánh cấp huyện, thuộc tỉnh Chạ Chan Sao… cả các nhà khoa học, cán bộ khuyến nông và nông dân nước ta đều đã nhận ra nhiều điều.
Công tác khuyến nông của Thái Lan rất mạnh
Ông Phan Huy Thông, nguyên Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, chia sẻ: “Nền nông nghiệp của Thái không lớn, nhưng chính sách khuyến nông của họ rất mạnh. Hằng năm, Chính phủ chi cho khuyến nông đến 150 triệu USD, nếu chia cho số hộ sản xuất nông nghiệp cả nước thì mỗi hộ có 6 triệu đồng; trong khi ở ta chỉ có 50 ngàn đồng/hộ/năm.
Trung tâm Kiểm soát Sinh học các cấp của họ làm cả nghiên cứu, huấn luyện, chuyển giao và làm dịch vụ. Một trung tâm cấp vùng, phụ trách 9 tỉnh mà chỉ có 33 nhân sự, trong đó chỉ có 9 người là nhân viên nhà nước, còn lại là hợp đồng dài hạn, ngắn hạn và 10 công nhân. Cán bộ kỹ thuật thường phải đi công tác các tỉnh, 10 công nhân đều làm thành thạo việc nuôi cấy, nhân giống, phát triển thiên địch và hướng dẫn, chuyển giao cho cấp dưới. Không thấy người làm hành chính đơn thuần.”
Ông Võ Quốc Trung, Trưởng phòng kỹ thuật, Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng, thì cho biết: Cách đây gần chục năm, ở Thái có dịch sáp hồng trên cây sắn; họ tập trung diệt, chủ yếu dùng thiên địch do họ nuôi cấy. Dịch bệnh được khống chế, nhưng người ta không coi vậy là xong mà tiếp tục duy trì các biện pháp quản lý sinh học đến nay. Trong khi đó ở ta năm 1996-1997 bùng phát dịch rày nâu gây hại nặng nề cho sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, ta cũng tập trung khống chế dịch bằng nhiều biện pháp, trong đó có dùng nấm xanh, nấm hồng, phóng thích ong ký sinh vào môi trường… Kết quả tốt. Dịch rày nâu bị dập tắt, nhưng sau đó ta đã “rửa tay gác kiếm”, coi như xong, nên nguy cơ tái dịch là rất lớn. Mình học được họ ở chỗ này.”
Ở Thái Lan cũng xác định làm khuyến nông phải kiên trì. Ông Thiwa, Giám đốc Trung tâm Kiểm soát Sinh học cấp vùng ở Chon Bu Ri, cho biết: “Trung tâm luôn có 2 chương trình, nội dung hoạt động riêng: đó là tập huấn, đào tạo cho cán bộ kỹ thuật và huấn luyện, hướng dẫn cho nông dân tại ruộng (FFS). Chúng tôi không khuyến khích cách làm mô hình trình diễn. Một phần vì tập quán sản xuất, phần nữa là nhận thức nên vận động nông dân sử dụng các biện pháp sinh học không phải dễ. Lúc đầu nông dân rất e dè vì tác dụng của các biện pháp sinh học thường chậm. Cán bộ kỹ thuật khuyến nông phải cùng làm với nông dân, có nơi sau 4-5 vụ lúa, người ta mới tin theo”.
Bà Lê Thị Cẩm Nhung, Trưởng trạm Khuyến nông huyện Thới Lai, Cần Thơ, so sánh: “Ở Thái họ gắn rất chặt giữa khuyến nông và bảo vệ thực vật, không tách rời như bên ta. Ở ta nông dân đang còn rất nặng nhận thức sử dụng thuốc BVTV hóa học, cho chắc, nhìn thấy hiệu quả liền, bất chấp hậu quả cho sức khỏe người sản xuất, người tiêu dùng và cho cả môi trường sinh thái. Còn nếu áp dụng các biện pháp sinh học trong canh tác phải có thời gian, không chừng thất mùa thì… đói”.
Ông Lê Thanh Tùng, Phó phòng Cây lương thực, cây thực phẩm, Cục Trồng trọt nhìn nhận vấn đề này ở chỗ: “Thái Lan có hơn 10 triệu ha đất trồng lúa, gấp hơn 2 lần Việt Nam, trong khi dân số của họ chỉ bằng 2/3 dân số nước ta. Họ có điều kiện tập trung một số lượng diện tích đất để sản xuất gạo thơm, gạo chất lượng cao, bán ra thế giới với hơn 250 thương hiệu; chấp nhận năng suất lúa bình quân rất thấp (trên dưới 2,5 tấn/ha) và chỉ trồng 1 vụ/năm. Họ rất có điều kiện áp dụng các biện pháp canh tác hữu cơ, sinh học. Ta bây giờ dù có chậm, nhưng cũng đã đến lúc phải làm rồi. Phải quy hoạch lại ngành trồng lúa thật căn cơ, khoa học để có điều kiện tập trung sản xuất những giống lúa thơm chất lượng caovà áp dụng các biện pháp quản lý hữu cơ, để có thương hiệu hạt gạo Việt nổi bật trên thị trường thế giới.”
Để nông dân thông minh hơn
Ông Phan Văn Tâm, GĐ Makerting Cty Bình Điền cho biết: “Sau những lần tổ chức nông dân đi tham quan, học tập tại Viện lúa Quốc tế ở Philippiner, lần này sang Thái Lan, một nước có điều kiện sản xuất lúa rất gần gũi với Việt Nam, giúp nông dân tiếp cận một cách làm mới trong canh tác lúa. Từ những gì mắt thấy, tai nghe ở Trung tâm Kiểm soát Sinh học tại tỉnh Chon Bu Ri và Trung tâm Sing To Thong (tỉnh Chạ Chan Sao) sẽ giúp nông dân thông minh hơn trong sản xuất. Bình Điền mong muốn ngoài bón phân cân đối, giảm lượng phân vô cơ thì nông dân phải biết ứng dụng các biện pháp kiểm soát bằng sinh học, nâng cao chất lượng nông sản, giảm ô nhiễm môi trường, như Chương trình canh tác lúa thông minh mong muốn...”
Ông Phạm Văn Phụ, ở xã Huyền Hợi, huyện Càng Long, Trà Vinh rất phấn khởi. Ngoài 60 tuổi rồi ông mới được đi nước ngoài, lại được tham quan, học hỏi về cái nghề ruột của mình là trồng lúa. Ông thấy nhiều cái người Thái họ làm rất hiệu quả, như dùng con thiên địch, mà con này được họ nuôi cấy, sản xuất hàng loạt rồi tung ra môi trường, chứ không chỉ trong cậy vào thiên nhiên để diệt trừ sâu hại thay cho xịt thuốc hoá học. Cái này các nhà khoa học, quản lý của ta phải tính, phải chuẩn bị cho nông dân, mà phải làm nhanh, làm mạnh lên, chớ nông dân tụi tui không làm được.
Còn xem họ làm ruộng thì nông dân xứ mình đâu có thua kém gì. Mình muốn có năng suất cao, năm mần tới 3 vụ nên phải xài thiệt nhiều phân và thuốc trừ sâu hóa học. Nếu nhà nước có chính sách cụ thể thì nông dân tụi tui sẵn sàng làm ít vụ, chọn giống lúa tốt, áp dụng các biện pháp canh tác hữu cơ, sinh học, chấp nhận năng suất lúa không cao để có hạt gạo chất lượng cao cho tiêu dùng và xuất khẩu thôi.”
Cần một cơ chế, chính sách, quy hoạch rõ ràng, khoa học cho sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, vì một nền nông nghiệp phát triển bền vững và hiệu quả - Đó là mong muốn và đòi hỏi chung của mọi người./.
Theo CTV Trần Đình Thế/VOV.VN