Cập nhật: 18/09/2017 14:15:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Mộc bản triều Nguyễn là khối tài liệu chính văn gốc, độc bản, đặc biệt quý hiếm, là nguồn sử liệu ghi lại đầy đủ quá trình thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc UNESCO vinh danh Mộc bản triều Nguyễn là Di sản tư liệu thế giới, thể hiện sự trân trọng của cộng đồng quốc tế đối với khối tài liệu giá trị này. Bên cạnh việc gìn giữ, bảo quản bộ Mộc bản, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV tại TP Ðà Lạt đã và đang phát huy các giá trị di sản bằng nhiều hoạt động.

 

Nhân viên Trung tâm giới thiệu với du khách

các giá trị lịch sử của Mộc bản triều Nguyễn.

Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, Nguyễn Xuân Hùng cho biết: Ðây là những tài liệu đặc biệt, mang giá trị sử liệu quý hiếm. Mộc bản được thể hiện bằng chữ Hán Nôm khắc ngược trên gỗ để in thành sách, thường dùng phổ biến ở các triều đại phong kiến Việt Nam. Mộc bản triều Nguyễn phần lớn được khắc in dưới triều Nguyễn. Nội dung bộ Mộc bản rất phong phú và đa dạng, phản ánh các lĩnh vực lịch sử, địa lý, chính trị - xã hội, quân sự, pháp chế, văn hóa - giáo dục, tôn giáo - tư tưởng - triết học, văn thơ, ngôn ngữ - văn tự... từ thời Hùng Vương dựng nước đến triều Nguyễn. Tài liệu mộc bản là những bộ biên niên sử được biên soạn và khắc in rất công phu.

Với các công trình kiến trúc đẹp và phong phú các hoạt động khoa học, trưng bày, triển lãm, thời gian qua, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV đã trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trên hành trình khám phá, trải nghiệm thành phố Ðà Lạt (Lâm Ðồng). Tại đây, du khách có thể tham quan, tìm hiểu về di sản tư liệu thế giới Mộc bản triều Nguyễn. Chị Phạm Thị Yến, Trưởng phòng Tài liệu mộc bản của trung tâm cho biết, trung tâm đang bảo quản 34.619 tấm, với 55.320 mặt khắc tài liệu mộc bản; gồm 152 đầu sách, với 1.953 quyển. Năm 2007, trung tâm đã khai trương và mở cửa Khu trưng bày tài liệu lưu trữ, để công bố, giới thiệu về bộ Mộc bản triều Nguyễn với các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế.

Trong quá trình tra tìm tư liệu, đội ngũ cán bộ Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV đã phát hiện nhiều bản khắc mộc bản thể hiện chủ quyền thiêng liêng của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ðây là những bản khắc cổ nhất được tìm thấy, trong đó, mô tả vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và ghi lại quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này.

 

Cán bộ Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV kiểm tra, bảo quản bộ Mộc bản triều Nguyễn.

Giới thiệu với du khách tham quan, chị Trần Thị Minh, Trưởng phòng Tổ chức sử dụng tài liệu, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV cho biết, Mộc bản sách "Ðại Nam nhất thống chí" (quyển 6, mặt khắc 5), do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, chỉ rõ: "Tỉnh Quảng Ngãi, phía đông của tỉnh có đảo Hoành Sa - tức Hoàng Sa". Tại quyển 6, bản khắc số 18 của sách này ghi cụ thể: "Ðảo Hoàng Sa ở phía Ðông cù lao Ré. Từ bờ biển Sa Kỳ đi thuyền ra, thuận gió thì độ ba, bốn ngày đêm có thể đến nơi. Trên đảo quần tụ rất nhiều núi, có đến hơn 130 đảo nhỏ cách nhau hoặc một ngày đường, hoặc mấy trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là bãi "Vạn lý Trường Sa", trên đảo có nguồn nước ngọt chảy ra, chim biển quần tụ...".

Tại Mộc bản sách "Ðại Nam thực lục tiền biên" (quyển 10, mặt khắc 24), miêu tả về Hoàng Sa: "Ở ngoài biển thuộc về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát cách nhau khoảng một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là "Vạn lý Hoàng Sa - Bãi cát vàng vạn dặm". Trên bãi cát có nguồn nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba... Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm đến tháng ba thì đi thuyền ra, đi độ ba ngày đêm thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng Tám thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn để tìm lượm hóa vật, đội này cũng do đội Hoàng Sa cai quản".

Dưới triều Nguyễn, các hoạt động xác lập, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa được thực thi liên tục. Mộc bản sách "Ðại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ" (quyển 22, mặt khắc 2), chép việc ngay sau khi lên ngôi Hoàng đế năm 1802, "vua Gia Long lấy cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự của biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch làm đội Hoàng Sa". Năm 1815, vua Gia Long tiếp tục "sai đội Hoàng Sa là bọn Phạm Quang Ảnh ra đảo Hoàng Sa thăm dò, đo đạc thủy trình" (quyển 50, mặt khắc 6). Trong Mộc bản sách này, tại quyển 52, mặt khắc 15, chép việc vua Gia Long sai thủy quân và đội Hoàng Sa đi thuyền ra để thăm dò, đo đạc thủy trình. Và tại quyển 154, mặt khắc 4, ghi việc "dựng đền thờ thần ở đảo Hoàng Sa - Quảng Ngãi".

Cũng theo Mộc bản sách "Ðại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ", (quyển 165, mặt khắc 25), năm 1836, vua Minh Mạng chuẩn y lời tâu của các quan trong triều, cho đội thủy quân Phạm Hữu Nhật ra Hoàng Sa cắm mốc chủ quyền: "Mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, chọn phái biền binh thủy quân và giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng 2 thì đến Quảng Nghĩa (tức Quảng Ngãi), bắt hai tỉnh Quảng Nghĩa, Bình Ðịnh thuê bốn chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào (đảo lớn và nhỏ), bãi cát nào, khi thuyền đi đến cũng xem xét xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên chung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, khác dị thế nào, phải tường tận đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến nơi ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, ước chừng cách bờ bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ sự thay đổi, đem về dâng trình". Vâng mệnh vua, suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đã đem binh thuyền dong khơi thẳng hướng Hoàng Sa (nhân dân trong vùng vẫn thường gọi là đội Hùng binh Hoàng Sa). Suất đội thủy quân được chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi, mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, mặt bài khắc những chữ "Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ".

Lần giở Mộc bản sách "Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ" (quyển 221, mặt khắc 26), chị Trần Thị Minh giới thiệu về nội dung khắc chép trong đó về đội thủy binh đi làm nhiệm vụ thực thi chủ quyền Tổ quốc trên quần đảo Hoàng Sa: "Năm thứ 17 đời vua Minh Mạng, chuẩn y tâu rằng: Hoàng Sa thuộc khu vực ngoài biển rất hiểm yếu. Minh Mạng năm thứ 15, đã phái thủy quân, biền binh và giám thành đến nơi xem xét, nhưng vì có gió lụt, nên chưa thể thăm dò được đích xác. Năm ngoái lại phái người ra, và đã lập miếu, dựng bia. Còn việc vẽ bản đồ chỉ được một chỗ chưa được rõ ràng. Có lẽ hằng năm nên phái người đi thăm dò khắp mọi chỗ cho thuộc đường biển. Nay cần cử người ở hai tỉnh Quảng Nghĩa và Bình Ðịnh chiếu theo lệ năm trước, thuê thuyền dân, chia phái theo hướng dẫn đến tề tựu ở tỉnh Quảng Nghĩa, rồi phái biền binh, thủy quân cùng giám thành cưỡi một chiếc thuyền ô đi đến xứ Hoàng Sa. Không cứ đảo nào, cửa biển nào, nơi thuyền chạy đến đều phải vẽ chiều dài, chiều rộng, chiều cao, chu vi bao nhiêu, và bốn bề nước biển nông hay sâu? Có cát ngầm, đá mỏm hay không, hình thế hiểm trở hay bình thường, đều phải đo đạc, vẽ bản đồ rõ ràng. Lại chiếu: khi khởi hành từ cửa bể nào ra biển, trông phương hướng nào mà lái tới nơi ấy, căn cứ theo đường thủy đã đi, tính toán ước lượng bao nhiêu dặm đường? Lại từ chỗ ấy trông vào bờ đất liền đối thẳng với tỉnh nào? Là phương hướng nào? Chéo lệch với tỉnh nào, theo hướng nào? Ước lượng cách bờ bao nhiêu dặm đường? Ghi rõ, minh bạch trong họa đồ để về trình lên. Từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, chiếu theo lệ cũ mà làm".

Theo chị Trần Thị Minh, cùng với các tư liệu giá trị nêu trên, tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV còn trưng bày một số tài liệu khác có liên quan đến việc thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai vùng quần đảo như: Văn bằng do Bố chính tỉnh Quảng Ngãi cấp cho dân phu đảo Lý Sơn thuê làm đà công, lái thuyền làm hoa tiêu để đi khai thác ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; sách "Phủ biên tạp lục", biên soạn năm 1776, chép về đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải (quần đảo Trường Sa), là những người đã đi khai phá khu vực mà ngày xưa Lê Quý Ðôn gọi là Ðại Trường Sa… Cùng các Châu bản triều Nguyễn, niên đại từ triều Gia Long đến triều Bảo Ðại đã khẳng định và xác lập rõ ràng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thực thi liên tục một cách hòa bình qua nhiều thế kỷ.

Mua Mộc bản triều Nguyễn, có thể thấy rõ các triều đại của Việt Nam đã thường xuyên tổ chức nhiều hoạt động đi ra thăm dò, khai phá, xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Giám đốc Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, Nguyễn Xuân Hùng cho biết: "Hiện, di sản tư liệu giá trị này được bảo quản nghiêm ngặt, khoa học và lưu trữ dạng đặc biệt của Việt Nam và hiếm có trên thế giới. Thời gian qua, chúng tôi đã tổ chức triển lãm, giới thiệu đến công chúng trong nước và quốc tế hiểu, tiếp cận dưới góc độ pháp lý một cách cơ bản nhất về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".

Bài và ảnh: MAI VĂN BẢO

Theo nhandan.com.vn

Tệp đính kèm