Chiều 28/11, tại TPHCM, sau 2 ngày làm việc với 30 tham luận chính và gần 300 câu hỏi thảo luận và bình luận, Hội thảo quốc tế lần thứ 9 về Biển Đông với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực” do Học viện Ngoại giao (DAV), Quỹ Hỗ trợ nghiên cứu Biển Đông (FESS) và Hội Luật gia Việt Nam (VLA) tổ chức đã kết thúc tốt đẹp.
Các đại biểu tham dự Hội thảo
Qua 7 phiên làm việc trong 2 ngày diễn ra hội thảo, các đại biểu đã thảo luận sôi nổi về bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực, những diễn biến mới và tác động tới trật tự thượng tôn pháp luật trên Biển Đông. Các đại biểu cũng dành thời gian đánh giá về tương quan lực lượng hải quân, dân quân, về một số hoạt động trên biển từ góc độ pháp lý và chính trị, từ đó đưa ra một số sáng kiến, đề xuất vì sự phát triển bền vững trong khu vực. Đáng lưu ý, trong Phiên 7, các học giả cùng xem xét về một số thành tố và tiến trình để đạt được Bộ Quy tắc ứng xử COC.
Về tình hình Biển Đông, các học giả cơ bản chia sẻ quan điểm cho rằng năm 2017, tình hình Biển Đông yên ả trên bề mặt, song vẫn tiềm ẩn nguy cơ sóng ngầm phức tạp. Khác biệt trong lập trường và nhận thức của các nước về lịch sử và các diễn biến trên thực địa cùng việc luật pháp quốc tế không được tuân thủ triệt để là nguyên nhân khiến tranh chấp trên Biển Đông có thể trở nên căng thẳng hơn.
Ngoài các tranh chấp truyền thống, tình hình Biển Đông còn phức tạp hơn do sự xuất hiện và phát triển của những thách thức phi truyền thống trong khu vực như tình trạng biến đổi khí hậu, khai thác quá mức dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên, cướp biển, khủng bố và tội phạm trên biển. “Học thuyết Trump”, với việc chú trọng đến thương mại và theo đuổi chính sách “Nước Mỹ trước tiên” và sự điều chỉnh cách tiếp cận của Philippines đối với vấn đề Biển Đông dưới chính quyền của Tổng thống Duterte đã tạo ra những điều kiện tương đối thuận lợi với Trung Quốc ở Biển Đông.
Trước tình hình đó, luật pháp đóng vai trò quan trọng để duy trì hoà bình, ổn định tại Biển Đông. Hiện nay, luật pháp quốc tế có thể chưa hoàn thiện hoặc bị diễn giải theo nhiều cách khác nhau tùy lợi ích của từng nước, song đó vẫn là nền tảng quan trọng để duy trì trật tự thế giới vì thịnh vượng chung. Các học giả cho rằng các nước thay vì tìm cách khai thác các lỗ hổng của luật pháp quốc tế cần tập trung xây dựng, hoàn thiện và thống nhất cách diễn giải để thúc đẩy hòa bình và hợp tác trên biển; tránh "tiêu chuẩn kép" trong diễn giải và thực thi luật pháp quốc tế. Các quốc gia có lợi ích ở Biển Đông như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, hay Australia và ASEAN cần thể hiện vai trò mạnh mẽ hơn trong khu vực. ASEAN và Trung Quốc đã đạt được khung COC nhưng để đạt được một bản COC hiệu quả còn nhiều khó khăn. Các nước trong khu vực và trên thế giới cần thể hiện trách nhiệm với hệ thống quốc tế dựa trên luật pháp thông qua việc thực thi các phán quyết của tòa án và trọng tài.
Điều chỉnh các hoạt động trên biển theo hướng biến những thách thức nảy sinh từ các hoạt động trên biển thành các cơ hội để các quốc gia tăng cường hợp tác, thúc đẩy phát triển bền vững là chủ đề nhận được nhiều đồng thuận của các học giả trong Hội thảo. Theo đó, các quốc gia có thể thiết lập cơ chế hợp tác với lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường, cướp biển, huấn luyện, đào tạo năng lực cho các lực lượng thực thi pháp luật trên biển.
Trong lĩnh vực nghề cá, các quốc gia cần thúc đẩy xây dựng lòng tin và hợp tác trong việc cùng xác định mùa không đánh bắt cá, thảo luận cấm các hình thức đánh bắt cá bất hợp pháp, thiết lập khu vực biển được bảo vệ và trách nhiệm của quốc gia về quản lý với các tàu cá nước mình. Trong lĩnh vực an toàn hàng hải và phòng chống đụng độ trên biển, hợp tác trong việc thực thi nghĩa vụ của quốc gia mà tàu mang cờ, hợp tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia trên biển cũng như thực thi các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và các Công ước về An toàn hàng hải của Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu các vụ đụng độ trên biển. Đặc biệt, sáng kiến thành lập khu vực hợp tác ở phía bắc Trường Sa giữa Việt Nam, Trung Quốc và Philippines để thúc đẩy hợp tác về nghề cá, bảo vệ môi trường và an toàn hàng hải.
Các học giả cũng đã có những tranh luận sôi nổi xung quanh tương lai đạt được COC. Thành tố và tiến triển của Bộ Quy tắc vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi, nhưng các học giả nhất trí rằng quá trình này phụ thuộc phần lớn vào ý chí chính trị của các bên liên quan. Quá trình đàm phán COC sẽ phải giải quyết những khó khăn liên quan đến việc xác định phạm vi địa lý, hiệu lực, điều khoản về tranh chấp của COC.
Ngoài ra, các học giả đề xuất quá trình đàm phán COC nên tập trung thêm vào việc quy định các nguyên tắc như không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ vũ lực, duy trì nguyên trạng, kiềm chế, cơ sở pháp lý cho các hoạt động hợp tác, danh sách các hành động nên được khuyến khích và các hành động không được thực hiện ở Biển Đông, cũng như các bộ quy tắc ứng xử đặc thù cho một số lĩnh vực như phi quân sự hoá các địa điểm chiếm đóng, nghề cá, bảo vệ môi trường biển và an toàn hàng hải theo các quy định của luật quốc tế nói chung và Công ước Liên Hợp Quốc 1982 về Luật Biển nói riêng.
Phát biểu bế mạc, PGS.TS Nguyễn Vũ Tùng nhận định, hội thảo đã thảo luận sâu sắc và có giá trị về nhiều khía cạnh ở Biển Đông, góp phần đạt được những nhận thức chung về mục tiêu hướng tới một vùng biển “thông minh”. Vấn đề Biển Đông còn nhiều diễn biến khó lường, vì vậy, cần ý chí chính trị chung, lòng tin, cơ chế hiện hành dựa trên luật pháp quốc tế và một cách tiếp cận dung hoà, sáng tạo để vượt qua những thách thức, khó khăn và thúc đẩy hợp tác, hòa bình và ổn định của khu vực.
Hội thảo quốc tế lần thứ 9 về Biển Đông đã diễn ra trong không khí cởi mở, thẳng thắn, thực chất và là một nỗ lực có ý nghĩa nhằm đóng góp cho việc thúc đẩy hợp tác quốc tế vì hòa bình, ổn định của Biển Đông.
Theo Chinhphu.vn