Bác sĩ cảnh báo, người mắc căn bệnh làm tăng nguy cơ đột quỵ gấp 5 lần này cần tuân thủ các biện pháp điều trị dự phòng để phòng ngừa biến chứng nguy hiểm.
Bệnh nhân P.V.H. (46 tuổi, ngụ TPHCM) đang được theo dõi điều trị rung nhĩ và uống thuốc kháng đông để dự phòng đột quỵ. Nhưng do công việc bận rộn, gần đây anh bỏ tái khám và ngưng uống thuốc suốt 5 ngày.
Trong lúc đang làm việc, người đàn ông đột ngột bị liệt tay trái, méo miệng nên được đưa đi cấp cứu. Tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM, ekip trực khoa Cấp cứu đã kích hoạt quy trình báo động đỏ. Bệnh nhân được chẩn đoán đột quỵ thiếu máu não, tắc mạch máu lớn nội sọ do huyết khối, được chỉ định can thiệp lấy huyết khối tái thông mạch máu.
Nhờ được xử lý kịp thời, bệnh nhân tránh được các hậu quả nặng nề, phục hồi vận động nửa người trái sau can thiệp và được theo dõi chăm sát tại Đơn vị Đột quỵ.
Bệnh nhân điều trị đột quỵ tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM (Ảnh: BV).
TS.BS Nguyễn Bá Thắng, Trưởng Đơn vị Đột quỵ của bệnh viện cho biết, rung nhĩ là tình trạng tim đập loạn nhịp, gây ứ trệ máu trong buồng tim, dẫn đến hình thành những cục huyết khối trong tâm nhĩ. Các cục huyết khối này có thể gây tắc mạch, trường hợp tắc mạch máu não sẽ dẫn đến đột quỵ.
Thống kê cho thấy, rung nhĩ có khả năng làm người bệnh tăng nguy cơ đột quỵ lên gấp 5 lần so với người bình thường. Khoảng 20% các trường hợp đột quỵ là do rung nhĩ gây ra. Việc bệnh nhân bị rung nhĩ chủ quan bỏ thuốc kháng đông khi đang điều trị dự phòng cũng tiềm ẩn khả năng biến chứng đột quỵ.
Thời gian tối thiểu kể từ khi rung nhĩ xuất hiện dẫn đến đột quỵ là ít nhất 24 giờ. Nguy cơ đột quỵ có thể thường gặp hơn ở người từ 65 tuổi trở lên, có tiền sử đột quỵ, thiếu máu não thoáng qua hoặc thuyên tắc mạch hệ thống; người bệnh mắc các bệnh lý suy tim ứ huyết, tăng huyết áp, đái tháo đường hoặc các bệnh mạch máu.
Cũng theo TS.BS Thắng, thiếu máu não thoáng qua (TIA) là tình trạng giảm tưới máu não trong một thời gian ngắn. Về bản chất, TIA cũng được xem như một cơn đột quỵ nhẹ. Nguy cơ đột quỵ và tái phát đột quỵ trên người bệnh TIA rất cao. Cụ thể là 12% trong khoảng 30 ngày và 17% trong khoảng 90 ngày - gấp 4 lần so với tỷ lệ chung của các loại đột quỵ.
Bệnh nhân bị rung nhĩ chủ quan bỏ thuốc kháng đông khi đang điều trị dự phòng cũng tiềm ẩn nguy cơ biến chứng đột quỵ. (Ảnh: BV).
Khoảng 20-40% các trường hợp đột quỵ được báo trước bởi một cơn TIA hoặc đột quỵ nhẹ. Do đó, người bệnh không được chủ quan và phải có các phương pháp dự phòng tái phát đột quỵ nhằm giảm nguy cơ tác động.
Chiến lược dự phòng đột quỵ tái phát trên bệnh nhân TIA gồm dự phòng theo căn nguyên và dự phòng các yếu tố nguy cơ. Dự phòng theo căn nguyên thường được tiến hành trên người bệnh rung nhĩ với những phương pháp phổ biến như dùng thuốc kháng đông, kháng kết tập tiểu cầu, can thiệp hẹp động mạch cảnh. Các yếu tố nguy cơ cao gây đột quỵ trên người bệnh cũng được kiểm soát tối đa.
Các bác sĩ khuyến cáo, mỗi người bệnh rung nhĩ và thiếu máu não thoáng qua nên chủ động tầm soát đột quỵ 1-2 lần mỗi năm. Bên cạnh đó, cần tuân thủ điều trị, dùng thuốc theo đúng chỉ định và tái khám đầy đủ để được bác sĩ theo dõi, điều chỉnh thích hợp. Đồng thời, cần xây dựng và duy trì chế độ dinh dưỡng khoa học, thói quen sinh hoạt lành mạnh.