Trước thềm Hội nghị thượng đỉnh NATO 2025, câu hỏi lớn được đặt ra: Liệu Châu Âu có đủ sức mạnh và quyết tâm để tự xây dựng một “trụ cột” quốc phòng vững chắc, khi Mỹ có thể rút lui hoặc giảm hỗ trợ?
.jpg)
Cờ Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (giữa) và quốc kỳ các nước thành viên NATO tại trụ sở tổ chức ở Brussels (Bỉ). Ảnh: Kyodo/TTXVN
Theo Ian Bond, Phó Giám đốc Trung tâm Cải cách châu Âu (cer.eu), khi các nhà lãnh đạo NATO tề tựu tại Hội nghị thượng đỉnh ở The Hague vào ngày 24 - 25/6 năm nay, họ sẽ phải đối mặt với vô vàn thách thức: từ cuộc chiến ở Ukraine cho đến việc tìm kiếm nguồn lực để gia tăng chi tiêu quốc phòng. Tuy nhiên, nỗi lo lớn nhất đối với nhiều người có lẽ sẽ là những ý định khó đoán của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump. Trong quá khứ, tại Hội nghị thượng đỉnh NATO tháng 7/2018 ở Brussels, ông Trump đã phải được các cố vấn thuyết phục để không tuyên bố rút Mỹ khỏi liên minh. Câu hỏi đặt ra là, người châu Âu sẽ làm gì nếu kịch bản đó thực sự xảy ra trong hội nghị lần này?
Nhu cầu tự chủ của châu Âu
Chuyên gia Bond lưu ý châu Âu không nên chủ quan cho rằng ông Trump sẽ không thực hiện lời cảnh báo. Mặc dù Quốc hội Mỹ năm 2023 đã thông qua luật nhằm ngăn chặn một tổng thống rút khỏi NATO mà không có sự chấp thuận của quốc hội, nhưng chính quyền Trump đã chứng tỏ khả năng phớt lờ các đạo luật đó. Hơn nữa, những hành động và tuyên bố gần đây của chính quyền Trump cho thấy an ninh châu Âu không còn là ưu tiên hàng đầu của Mỹ. Đại sứ Mỹ tại NATO Matthew Whitaker đã thông báo vào ngày 16/5 vừa qua rằng Washington sẽ bắt đầu thảo luận về việc cắt giảm lực lượng ở châu Âu. Ngay cả khi Mỹ vẫn chính thức là thành viên NATO, sự hiện diện quân sự của nước này tại châu Âu gần như chắc chắn sẽ bị cắt giảm. Do đó, các quốc gia châu Âu cần chuẩn bị tinh thần để tự vệ với sự hỗ trợ ít hoặc không có từ Mỹ.
Trong bối cảnh đó, các quan chức và bộ trưởng NATO thường xuyên cảnh báo rằng EU không thể thay thế NATO và các nỗ lực quốc phòng của hai khối không nên cạnh tranh với nhau. Tuy nhiên, những động thái của ông Trump đã buộc ngay cả các chính trị gia vốn thiên về NATO như Thủ tướng Đức Friedrich Merz cũng phải lên tiếng ủng hộ "độc lập khỏi Mỹ". Thế nhưng, nếu không có Mỹ, cả EU và NATO đều không được trang bị tốt để bảo vệ châu Âu. Có ít nhất ba vấn đề cấp bách mà châu Âu cần giải quyết: răn đe, chỉ huy và năng lực.
Răn đe: Cam kết trên giấy và thực tế phũ phàng
Chuyên gia Bond cho rằng răn đe hiệu quả dựa vào việc một đối thủ tiềm tàng hiểu rõ rằng nếu họ tấn công một thành viên của liên minh, các thành viên khác sẽ tham gia hỗ trợ. Về mặt lý thuyết, Điều 42.7 của Hiệp ước EU đưa ra sự đảm bảo quốc phòng mạnh mẽ hơn Điều 5 của NATO. Điều khoản của EU nêu rõ rằng nếu một quốc gia thành viên "là nạn nhân của hành vi bị tấn công vũ trang trên lãnh thổ của mình, các quốc gia thành viên khác sẽ có nghĩa vụ hỗ trợ và giúp đỡ bằng mọi cách trong khả năng của mình". Ngược lại, Điều 5 của NATO linh hoạt hơn: một đồng minh chỉ phải thực hiện "hành động mà họ cho là cần thiết, bao gồm cả việc sử dụng vũ lực".
Tuy nhiên, thực tế là sự đảm bảo của Điều 42.7 gần như vô nghĩa vì các quốc gia thành viên không phân bổ lực lượng cho EU và không có kế hoạch thống nhất để bảo vệ lẫn nhau. Điều này được thể hiện rõ khi Điều 42.7 thừa nhận rằng đối với 23 quốc gia thành viên EU cũng là đồng minh của NATO, NATO "vẫn là nền tảng cho phòng thủ tập thể của họ và là khuôn khổ để thực hiện". Lần duy nhất nó được viện dẫn là để ứng phó với các cuộc tấn công khủng bố ở Paris vào tháng 11/2015.
Sự chắc chắn về phản ứng của NATO, với sự tham gia của Mỹ, có thể giúp ngăn chặn mọi cuộc tấn công vào EU trong suốt Chiến tranh Lạnh và sau đó. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một hoặc nhiều trong số 23 thành viên EU và NATO bị tấn công, và Mỹ chặn sự đồng thuận về phản ứng của NATO, hoặc cho rằng không cần hành động nào từ phía mình? Hoặc nếu một trong bốn thành viên EU không thuộc NATO bị tấn công?
Vấn đề chỉ huy và năng lực: Điểm yếu của châu Âu
Ngay cả với sự đảm bảo phòng thủ, vấn đề thứ hai – chỉ huy – sẽ cản trở khả năng ứng phó với một cuộc tấn công vào EU nếu Mỹ không tham gia tích cực. EU không có cơ cấu chỉ huy nào có khả năng điều hành một hoạt động quy mô lớn để bảo vệ lãnh thổ của một quốc gia thành viên, và cơ cấu chỉ huy của NATO phụ thuộc rất nhiều vào các sĩ quan Mỹ.
Năng lực lập kế hoạch và hành động quân sự (MPCC) của EU hiện chỉ phục vụ các nhiệm vụ phi chiến đấu quy mô nhỏ. Dù được kỳ vọng sẽ trở thành sở chỉ huy tác chiến cho Lực lượng Triển khai Nhanh (RDC) gồm 5.000 quân của EU, nhưng ngay cả việc này cũng cần 250 nhân viên thường trực cho MPCC, trong khi hiện tại chỉ có 60 nhân viên thường trực. Đối với các hoạt động lớn hơn, EU phải dựa vào các trụ sở được cung cấp bởi các quốc gia thành viên.
Ngược lại, NATO có một cơ cấu chỉ huy thường trực lớn với 6.800 nhân sự. Mỹ thường cung cấp hơn 10% nhân viên trong cơ cấu chỉ huy NATO và chiếm giữ nhiều vị trí cấp cao nhất, bao gồm Tổng tư lệnh Đồng minh châu Âu (SACEUR). Việc tìm kiếm hàng trăm sĩ quan tham mưu đủ tiêu chuẩn để đảm nhiệm những nhiệm vụ do người Mỹ nắm giữ sẽ là một thách thức lớn đối với châu Âu, đặc biệt nếu điều đó xảy ra trong thời kỳ khủng hoảng.
Về năng lực quân sự, NATO ước tính các thành viên châu Âu có hơn hai triệu quân vào giữa năm 2024, so với 1,3 triệu quân của Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ nằm ở số lượng quân mà còn ở vũ khí, trang thiết bị và đạn dược. Viện Kinh tế Thế giới Kiel cho biết, Nga đã sản xuất hoặc tân trang 1.550 xe tăng vào năm 2024, nhiều hơn tổng số xe tăng của Pháp, Đức, Italy và Anh cộng lại. Sản lượng đạn pháo của Nga cũng lớn hơn nhiều so với châu Âu. Châu Âu vẫn phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ trong các lĩnh vực then chốt như hệ thống phòng không tầm xa (Patriot) và các hệ thống tên lửa phóng loạt.
Đặc biệt, "C4ISR" (chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và trinh sát) là những lĩnh vực mà châu Âu phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ. Mỹ có số lượng lớn vệ tinh và các tài sản trinh sát khác, khả năng thu thập thông tin tình báo và phân tích khổng lồ, thông tin liên lạc an toàn và khả năng xác định và nhắm mục tiêu vào các lực lượng thù địch một cách nhanh chóng. Nếu Mỹ rút hỗ trợ tình báo khỏi các đồng minh NATO ở châu Âu (ví dụ như trong trường hợp với Ukraine vào tháng 3/2025), EU sẽ phải dựa vào các vệ tinh thương mại chất lượng thấp hơn.
NATO đã nói về việc củng cố "trụ cột châu Âu" của mình ít nhất từ cuối những năm 1980, nhưng vẫn chưa thống nhất được ý nghĩa cụ thể của điều đó. Một trụ cột châu Âu không thể chỉ là một nhóm EU trong NATO, bỏ qua sự đóng góp của các quốc gia như Na Uy, Thổ Nhĩ Kỳ và Anh. Tương tự, nó cũng không thể tồn tại hoàn toàn độc lập với EU, khi EU đang cố gắng đảm bảo cơ sở công nghiệp quốc phòng có thể sản xuất những gì châu Âu cần.
Chuyên gia Bond kết luận: cuộc xung đột Nga - Ukraine và sự giảm cam kết từ chính quyền Trump trong việc bảo vệ các đồng minh của Mỹ sẽ thúc đẩy các quốc gia châu Âu xây dựng một diễn đàn toàn diện cho quốc phòng. Một "trụ cột châu Âu" phù hợp sẽ cung cấp một đảm bảo quốc phòng ràng buộc cho tất cả các thành viên, không chịu sự phủ quyết của Mỹ; một liên kết với cấu trúc chỉ huy của NATO, được châu Âu hóa khi cần thiết, để cho phép NATO tiến hành các hoạt động; và một liên kết với các công cụ chính sách công nghiệp quốc phòng của EU, được mở rộng để các quốc gia châu Âu khác cũng hưởng lợi, nhằm thúc đẩy một ngành công nghiệp quốc phòng toàn châu Âu có khả năng sản xuất vũ khí và đạn dược ở quy mô lớn.
Bất kể chính quyền Trump nói hay làm gì tại hội nghị thượng đỉnh NATO sắp tới, châu Âu có thể sẽ tiến hành những bước đầu tiên để thống nhất về thiết kế và bắt đầu xây dựng một "trụ cột" quốc phòng tự chủ và vững mạnh của riêng mình.
Theo Vũ Thanh/Báo Tin tức và Dân tộc
https://baotintuc.vn/phan-tichnhan-dinh/hoi-nghi-nato-2025-chau-au-da-san-sang-xay-dung-tru-cotquoc-phong-tu-chu-20250606120105270.htm