1. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch (Tiêu chí 1)
Đến nay, Vĩnh Phúc đã quy hoạch mạng lới điểm dân cư nông thôn và quy hoạch chi tiết trung tâm xã cho 64/112 xã, còn 48 xã chưa có đủ 3 loại quy hoạch.
Hầu hết các xã vẫn chưa có quy hoạch đạt chuẩn tiêu chí xây dựng nông thôn mới, cần được tiếp tục rà soát, bổ sung, là cơ sở cho lập đề án và triển khai thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới ổn định và bền vững.
2. Hạ tầng kinh tế – xã hội ở nông thôn
2.1. Giao thông nông thôn (Tiêu chí 2)
Đến hết năm 2010 toàn tỉnh đã cứng hoá được 2.582/3.562 km đờng giao thông nông thôn, đạt 72% (yêu cầu tiêu chí là 100%). Trong đó:
- Đường trục xã, liên xã: Đã cứng hóa được 1.504/1.774km, đạt 84,4% (yêu cầu của tiêu chí là 100%). Trong đó:
+ Đường trục liên xã: Đã cứng hoá được 426/426km, đạt 100% (đạt yêu cầu của tiêu chí);
+ Đường trục xã: Đã cứng hoá 1.078/1.788km, đạt 80,3% (yêu cầu của tiêu chí là 100%).
- Đường trục thôn, xóm: Đã cứng hoá 1.078/1.788km, đạt 60,3% (yêu cầu của tiêu chí là 100%)
-Đờng giao thông nội đồng: Sở Giao thông vận tải xây dựng Đề án "phát triển đờng giao thông nội đồng giai đoạn 2011-2020 với tổng số là 2.159km, trong đó: 1.115km đờng trục chính (đã cứng hoá được 81km, đạt 7,3%) và 1.044km đờng nhánh khác (yêu cầu của tiêu chí phải cứng hoá 85%).
Trong những năm qua, nhu cầu vốn cho xây dựng giao thông nông thon rất lớn,nhng việc huy động vốn đóng góp của nhân dân gặp khó khăn, nhất là các xã trung du, miền núi và xã vùng bãi ven sông Hồng. Trong khi đó nguồn vốn ngân sách hỗ trợ đạt tỷ lệ thấp, nhiều dự án phải kéo dài, thi công không đúng tiến độ.
2.2. Thuỷ lợi (tiêu chí 3)
Vĩnh Phúc là tỉnh đầu tiên và duy nhất hỗ trợ toàn bộ phí dịch vụ thuỷ lợi nội đồng cho nông dân, từ năm 2007-2010 mỗi năm ngân sách tỉnh đầu t 37 tỷ đồng cho miễn thuỷ lợi phí.
Toàn bộ công trình thuỷ lợi trên địa bàn xã được bàn giao cho các công ty thuỷ lợi quản lý, khai thác.
Hệ thống thuỷ lợi cơ bản đáp ứng nhu cầu tới, có 39/43 ngàn ha đã chủ đoọng về nớc tới, đạt 90,6%.
Các công trình thuỷ lợi lớn trên địa bàn được đầu tư, cơ bản đáp ứng nhiệm vụ tới, tiêu theo thiết kế; một số công trình mới hiện đang được đầu tư hoàn thiện;
Công trình thuỷ lợi nhỏ gồm: 378 trạm bơm, 412 hồ chứa lớn nhỏ, mỗi năm tỉnh đã đầu tư nâng cấp hàng chục trạm bơm và các hồ chứa, góp phần chủ động nguồn nớc phục vụ sản xuất.
Trên địa bàn tỉnh hiện có 673,5km kênh mương, bao gồm kênh loại I (47,3km), kênh loại II (252,6km),kênh loại III (73,6km), không kể 887 km kênh mặt ruộng. Thực hiện Nghị quyết số 08/2007/NQ-HĐND ngày 11/5/2007 của HĐND tỉnh về chương trình kiên cố hoá kênh mương, đến nay 570km kênh các loại đã được UBND tỉnh và UBND cấp huyện phê duyệt dự án kiên cố hoá và đang triển khai thi công, còn lại 104 km chưa có quyết định phê duyệt.
Trong đó:
+Kênh loại I: Đã được UBND tỉnh phê duyệt 100% và đã được bố trí vốn đạt khoảng 60% tổng mức đầu t được phê duyệt, đã triển khai thi công và sẽ hoà thành trong năm 2011.
+Kênh loại II: Đã được UBND tỉnh phê duyệt 161/163,2km đạt 98,6% (thực tế kênh loại II chỉ còn 163,2km, số liệu theo Nghị quyết số 08/2007/NQ-HĐND là 252,6km,lệch 89,4km thực tế là kênh loại III) đã được bố trí khoảng 50% tổng mức đầu t được phê duyệt, đang triển khai thi công.
+Kênh loại III: đã được UBND tỉnh và UBND cấp huyện phê duyệt 361/463km đạt 77,9%; đã được bố trí khoản 30% tổng mức đâù t được phê duyệt, đang triển khai thi công.
Tổng nguồn vốn đã được phê duyệt 407 tỷ đồng, đã bố trí vốn từ năm 2008 đến năm 2010 là 188,83 tỷ đồng, đạt 46,4% kế hoạch so với tổng mức đầu t được phê duyệt; đạt 60,5% so Nghị quyết là 312 tỷ đồng.
2.3. Điện (tiêu chí 4)
Khu vực nông thôn toàn tỉnh có 680 trạm biến áp, 2.236 km đờng dây hạ thế. Trong đó:
-Trạm biến áp: Đạt chuẩn 1010%
-Đờng dây hạ thế: Đạt chuẩn 63%
-Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn đạt 80% (yêu cầu của tiêu chí phải đạt 1100%)
2.4. Trường học ( tiêu chí 5)
Tỷ lệ chung các trường có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia là 51,3% (252/491 trường). Trong đó:
-Mầm non 92/171 trường (53,8%);
-Tiểu học 119/174 trường (68,4%);
-THCS 41/146 trường (28,1%).
(Yêu cầu bình quân chung cả tỉnh phải có 90% số trường đạt chuẩn quốc gia).
Khó khăn lớn nhất trong xây dựng cơ sở hạn tầng trường học các cấp là thiếu quỹ đất để xây dựng đạt chuẩn, đặc biệt một số trường đã làm xong hiện không còn đất để mở rộng theo chuẩn.
2.5. Văn hoá và xây dựng thiết chế văn hoá cơ sở (Tiêu chí 6)
- Nhà văn hóa xã: có 107/112 xã có nhà văn hóa, trong đó có 52 nhà văn hóa đạt chuẩn (chiếm 46,4%);
- Sân thể thao xã: có 80/112 xã có sân thể thao, trong đó có 38 sân đạt chuẩn (chiếm 33,9%);
- Th viện xã: có 99/112 xã có th viện (chiếm 88,4%);
- Nhà văn hoá thôn: có 894/1.072 thôn có nhà văn hóa (chiếm 83,4%); trong đó, số nhà văn hóa thôn đạt chuẩn là 270 (chiếm 30%).
- Sân thể thao thôn: có 447/1.072 thôn có sân thể thao (chiếm 42%).
- Làng văn hoá trọng điểm: có 17 làng;
- Điểm bưu điện văn hóa xã: có109/112 xã có điểm bưu điện văn hóa (chiếm 97,3%).
Nhìn chung, công tác văn hoá, thể thao ở nông thôn trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Hệ thống cơ sở hạ tầng và các thiết chế văn hóa, thể thao được củng cố và xây dựng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sinh hoạt văn hoá, thể thao, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân.
Tuy nhiên, hầu hết các xã còn thiếu đất quy hoạch cho xây dựng nhà văn hóa, khu thể thao của thôn (kể cả số đã xây dựng xong) để đạt chuẩn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; kinh phí cho duy trì và thực hiện các thiết chế văn hóa trong cộng đồng còn hạn chế….
2.6. Chợ nông thôn (Tiêu chí 7)
Hiện nay, tỉnh có 43 chợ/112 xã, đạt 44%, được phân loại theo Quyết định số 2507/QĐ-CT ngày 11/9/2007 của Chủ tịch UBND tỉnh. Có 17 chợ đang được đầu t xây dựng, 52 chợ là các tụ điểm,lán tạm cần được đầu t phát triển. Trong đó:
- 06 chợ kiên cố (chiếm 5,36%)
- 30 chợ bán kiên cố (chiếm 26,6%)
- 76 chợ là các tụ điểm, lán tạm (chiếm 67,86%).
So với tiêu chuẩn xây dựng, hầu hết số chợ (kiên cố và bán kiên cố) đều đã xuống cấp, cha đảm bảo tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng.
2.7. Bưu điện (Tiêu chuẩn 8)
Hiện nay, 100% xã có điểm dịch vụ bưu chính, viễn thông. Trong đó: 176 điểm dịch vụ bưu chính, 27 bưu cục, 109 điểm bưu điện văn hóa xã và42 điểm đại lý bưu điện; bình quân số dân được hởng dịch vụ là 5.764 ngời/điểm. Số điểm dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt chuẩn là 98,7%.
Hệ thống cáp quang cung cấp dịch vụ Internet băng thông rộng đã được kết nối đến tất cả các xã; 100% xã có điểm truy cập Internet; 131/1.072 thôn có điểm truy cập Internet, chiếm 12% (yêu cầu của tiêu chí phải có điểm đấu truy cập Internet đến thôn).
2.8. Nhà ở dân cư (Tiêu chí 9)
Hiện nay, nông thôn của tỉnh có 196.944 ngôi nhà ở. Trong đó có 41.935 nhà kiên cố (chiếm 21.3%); 153.186 bán kiên cố (chiếm 77,8%) và 1.823 nhà tạm (chiếm 0,9%). Số hộ có đủ 3 công trình (nhà tắm, hố xí, bể nước) hợp vệ sinh là 87.371 hộ (chiếm 44,4%). Trên 70% số nhà đạt tiêu chuẩn (diện tích bình quân 14m2/ người, thời hạn sử dụng trên 20 năm).
(Yêu cầu của tiêu chí là không có nhà tạm, dột nát; 90% số hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn)
3. Phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất ở nông thôn
3.1. Thu nhập (Tiêu chí 10)
Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thông năm 2010 đạt 12,1 triệu đồng (672USD), bằng 39% bình quân chung của tỉnh (31 triệu = 1.630USD). (Yêu cầu của tiêu chí là bằng 1,5 lần so với bình quân chung của tỉnh).
3.2. Hộ nghèo (Tiêu chí 11)
Hộ nghèo ở nông thôn là 24.791 hộ (chiếm 12,6%), so với tiêu chí chưa đạt (yêu cầu của tiêu chí là dưới 11,6%)
3.3. Cơ cấu lao động (Tiêu chí 12)
Lao động làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, nghệp còn 57%, chưa đạt tiêu chí (bình quân 32%; xã đồng bằng, trung du: 45%; xã miền núi: 25%).
Tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo nghề từ 03 tháng trở lên chiếm 38,2%, đạt yêu cầu tiêu chí (bình quân chung trên 33,5%, xã đồng bằng, trung du trên 40% và xã miền núi trên 20%). Nếu tính riêng cho từng xã, theo từng vùng thì một số chưa đạt.
3.4. Hình thức tổ chức sản xuất (Tiêu chí 13)
Toàn tỉnh có 496 HTX. Khu vực nông thôn có 359 HTX (chiếm 72,4%). Trong đó có 248 HTX Nông nghiệp với 231.648 xã viên (178.134 hộ), HTX quy mô toàn xã là 65 (chiếm 26,2%), HTX quy mô thôn, xóm là 183 (chiếm 3,8%); HTX sản xuất kinh doanh có lãi là 185 (chiếm 75%).
Tổ hợp tác: Có 202 tổ, hình thành từ nhu cầu hợp tác phát triển kinh tế của các thành viên. Trong đó: có 169 tổ hoạt động khá (chiếm 84%). Tổ hợp tác hình thành tự phát, mang tính thời vụ, công tác quản lý còn lỏng lẻo…Hiện nay, còn 2 xã chưa có tổ chức kinh tế hợp tác.
4. Văn hóa, xã hội, môi trường
4.1. Giáo dục (Tiêu chí 14)
- Mức độ phổ cập giáo dục Trung học cơ sở cấp độ I toàn tỉnh đã đạt 100% từ năm 2002 (yêu cầu của tiêu chí là 100%)
- Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học Trung học phổ thông, bổ túc, học nghề đạt 94,5% ( Yêu cầu của tiêu chí trên 33%).
4.2. Y tế (Tiêu chí 15)
- Tỷ lệ người nông thôn tham gia các hình thức bảo hiểm y tế là 43,7% (yêu cầu của tiêu chí là 40%)
- Trạm y tế xã đạt chuẩn quốc gia trên 90%; đã được bố trí đủ số người theo quy định, trong đó số bác sĩ 106 người (đạt 77%);
So với tiêu chí, các chỉ tiêu về y tế cơ bản đạt.
4.3. Văn hóa (Tiêu chí 16)
Toàn tỉnh có 59,1% số làng được công nhận làng văn hóa (yêu cầu tiêu chí là 70%); 81,1% gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa; 98% số thôn, làng đã xây dựng được hướng.
4.4. Môi trường (Tiêu chí 17)
- Tỷ lệ hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 73%; trong đó 31,7% được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế;
- Số hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh đạt 71,7%;
- Số hộ có đủ 3 công trình sinh hoạt (nhà tắm, hố xí, bể nước) đạt tiêu chuẩn vệ sinh: 87.371 hộ (chiếm 44,4%)
Công tác quản lý, thu gom và xử lý chất thải ở nông thôn đã được chú trọng. 89 xã đã có tổ thu gom rác thải; 15 xã có HTX vệ sinh môi trường.
Tuy nhiên, công tác xử lý chất thải và bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn nông thôn hầu hết chưa đạt chuẩn.
Các hoạt động phát triển môi trường xanh - sạch - đẹp còn ít. Tình trạng xả rác bừa bãi vẫn còn phổ biến; chất thải, nước thải sinh hoạt, chăn nuôi chưa được thu gom triệt để. Công tác thu gom và xử lý chất thải, nước thải ở nông thôn chưa trở thành ý thức tự giác của mỗi người dân.
Phần lớn số nghĩa trang ở các xã chưa được xây dựng theo quy hoạch.
5. Hệ thống tổ chức chính trị xã hội (Tiêu chí 18)
5.1. Đội ngũ cán bộ
Đến nay, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có 2.512 người (gồm 1.412 cán bộ chuyên trách, 1.100 công chức chuyên môn). Trong đó: 1.774 người có trình độ chuyên môn trung cấp trở lên (chiếm 70,6%), 539 người trình độ đại học và cao đẳng; còn 738 người trình độ sơ cấp và chưa qua đào tạo (chiếm 29,4%).
Nhìn chung, trong những năm qua, đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã đã từng bước được chuẩn hóa và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Song vẫn còn một bộ phận chưa đạt chuẩn, đặc biệt cần thiết về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tin học; một số cán bộ, công chức chưa được bồi dưỡng lý luận chính trị và kiến thức quản lý Nhà nước.
5.2. Các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở
Tất cả các xã đều có đủ các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể theo quy định (đạt chuẩn).
5.3. Tổ chức Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh
- Về Đảng: Năm 2010 có 64/112 Đảng bộ xã đạt trong sạch vững mạnh (chiếm 57,1%); 46/112 Đảng bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ (chiếm 41,1%); còn 2/112 Đảng bộ hoàn thành nhiệm vụ (chiếm 1,8%).
- Về chính quyền: Có 64/112 xã đạt tiêu chuẩn chính quyền trong sạch, vững mạnh (chiếm 57,1%).
5.4. Các tổ chức đoàn thể chính trị: 72/112 xã có các tổ chức đoàn thể chính trị đạt tiêu chuẩn vững mạnh (64,3%).
6. An ninh, trật tự xã hội (Tiêu chí 19)
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nông thôn được đảm bảo, các vụ việc khiếu kiện giảm. 100% xã đã xây dựng tốt lực lượng quốc phòng toàn dân, thực hiện nghiêm kế hoạch huấn luyện dân quân tự vệ và có phương án sẵn sàng chiến đấu tại địa phương; hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân hằng năm và làm tốt chính sách hậu phướng quân đội; lực lượng an ninh, công an xã hoạt động tốt. So với tiêu chí nông thôn mới đã đạt.
Nhìn chung, những năm qua, kinh tế của tỉnh đạt tốc độ tăng trởng nhanh, cơ cấu chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; nguồn thu ngân sách tăng, có điều kiện để đầu tư và hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân. Trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn luôn được tỉnh đặc biệt quan tâm.
Đối chiếu với 19 tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, đến năm 2010 các xã đạt được như sau:
- Xã đạt từ 16 – 19 tiêu chí: Chưa có;
- Xã đạt từ 12 – 15 tiêu chí: có 5 xã (chiếm 4,5%);
- Xã đạt từ 8 – 11 tiêu chí: có 26 xã (chiếm 23,5%);
- Xã đạt dưới 8 tiêu chí: có 81 xã (chiếm 72%).
kết quả sau hơn 4 năm thực hiện nghị quyết 03-NQ/TU của tỉnh uỷ về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân
Sau hơn 4 năm tổ chức thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TU của Tỉnh uỷ về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nhân dân, đã thu được những kết quả như sau:
- Về bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, huấn luyện nghề ngắn hạn và cung cấp thông tin cho nông dân:
Đã mở được 1.910 lớp bồi dưỡng, nâng cao kiến thức cho trên 180.000 lượt nông dân; 2.539 lớp huấn luyện nghề ngắn hạn cho 77.171 lượt nông dân với 8 ngành nghề (đạt 101,5% mục tiêu Nghị quyết). Thiết lập được hệ thống thông tin từ tỉnh đến cơ sở; xây dựng 121 điểm cung cấp thông tin cho nông dân trong tổng số 137 xã, phường, thị trấn (đạt 88,32% kế hoạch đề ra). Kinh phí thực hiện trên 46,2 tỷ đồng.
Kết quả sau hơn 4 năm thực hiện Nghị quyết cho thấy, người nông dân đã có chuyển biến về nếp nghĩ, cách làm trong sản xuất, kinh doanh; định hướng rõ hơn về việc lựa chọn ngành nghề, việc làm phù hợp với nhu cầu xã hội, từng bước hình thành đội ngũ nông dân kiểu mới có kiến thức, tay nghề, năng động trong nền kinh tế thị trường; được trang bị những kỹ năng cơ bản, nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ, quản lý trang trại, phòng chống dịch bệnh…
- Về hỗ trợ giáo dục mầm non:
Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh đầu tiên của cả nước có chính sách hỗ trợ giáo dục mầm non. Ngân sách tỉnh đã cấp hỗ trợ lương, BHXH, BHYT cho giáo viên mầm non ngoài biên chế năm 2007, 2008 là 2.255 người, năm 2009 là 2.268 người; hỗ trợ hoạt động hàng tháng của các trường mầm non khu vực nông thôn năm học 2007 – 2008 là 168/179 trường; năm học 2008 – 2009 là 148/159 trường; năm học 2009 – 2010 là 151/165 trường; miễn phí năm học 2007 – 2008 là 42.377 cháu; năm học 2008 – 2009 là 41.000 cháu; năm học 2009 – 2010 là 41.915 cháu. Kinh phí thực hiện trên 106 tỷ đồng. Từ khi thực hiện Nghị quyết, chất lượng giáo dục mầm non ở khu vực nông thôn của tỉnh có chuyển biết rõ rệt.
-Về cơ chế khuyến thích phát triển giống cây trồng, vật nuôi:
UBND tỉnh đã phê duyệt 06 dự án thuộc Chương trình giống Quốc gia năm 2009 – 2010 với tổng kinh phí đầu t 37.018,05 triệu đồng.
Mỗi năm, toàn tỉnh xuất khoảng 3 nghìn tấn lúa giống, 50 tấn ngô giống; 150 ngàn lợn giống ngoại, 7,5 – 8 triệu gà con giống công nghiệp; 1,5 – 2 triệu cây giống lâm nghiệp (đạt mục tiêu); 1,8 – 2 tỷ các bột (đạt mục tiêu). Triển khai dự án cải tiến, nâng cao chất lượng giống đàn bò thịt, phát triển đàn bò sữa và hỗ trợ tinh dịch lợn ngoại cho các hộ chăn nuôi lợn nái sinh sản…góp phần nâng cao năng suất, chất lượng giống cây trồng, vật nuôi trên địa bàn tỉnh. Kinh phí thực hiện Nghị quyết gần 2 tỷ đồng.
- Về hỗ trợ xây dựng các vùng trồng trọt sản xuất hàng hóa và xây dựng các khu sản xuất tập trung:
Từ năm 2007 đến hết vụ mùa năm 2010 đã hình thành các vùng tập trung sản xuất hàng hóa với tổng diện tích gần 15.323,84ha, gồm: lúa chất lượng cao, bí đỏ, bí xanh, cà chua, dưa chuột, dưa hấu, ớt, su su…với kinh phí hỗ trợ gần 33 tỷ đồng. Năng suất, chất lượng tăng, hiệu quả sản xuất cao hơn giống cũ và cây trồng truyền thống, thu nhập của nông dân tăng; quy mô vùng có xu hướng được mở rộng, bước đầu tạo được thói quen sản xuất hàng hóa, thị trường và sản phẩm đặc trưng của địa phương như: bí đỏ Vĩnh Tường; gạo Long Trì, dưa chuột An Hòa (Tam Dương); su su Tam Đảo; lúa chất lượng cao Yên Lạc, Vĩnh Tường….
Năm 2008, UBND tỉnh cho thí điểm triển khai xây dựng 11 khu sản xuất tập trung, với kinh phí đầu t, hỗ trợ 18,3 tỷ đồng. Năm 2009 và 2010, UBND tỉnh đã cho chủ trưương đầu t 28 khu sản xuất tập trung, trong đó 26 khu chuyên sản xuất chăn nuôi và 2 khu sản xuất trồng trọt ứng dụng công nghệ cao, kinh phí thực hiện 23 tỷ đồng.
- Về chương trình kiên cố hóa kênh mương:
Tổng số kênh đã đủ thủ tục sẽ hoàn thành trong năm 2011 là 569,3 km (đạt 84,53% kế hoạch), trong đó: 47,3km kênh loại I; 161km kênh loại II và 361km kênh loại III với tổng kinh phí thực hiện: 188,893 tỷ đồng.
- Về miễn thuỷ lợi phí cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản:
Đã xây dựng xong bản đồ tưới, các công trình khó khăn về nguồn nước, UBND tỉnh đã phê duyệt tại Quyết định 365/QĐ-UBND và Quyết định 2783/QĐ-UBND, đã cơ bản hoàn thành Báo cáo Kinh tế Kỹ thuật, trong đó, 60% số công trình đã được phê duyệt và phân bố vốn, còn lại đang thẩm định và chờ phê duyệt. Hiện nay có 4.500ha/5.300ha khó khăn nguồn nước đã được tưới tiêu chủ động (đạt 84,9% kế hoạch). Thực hiện bàn giao 100% các công trình thuỷ lợi trên địa bàn tỉnh cho các công ty KTCT thuỷ lợi quản lý. Kinh phí thực hiện khoảng 384 tỷ đồng, trong đó: Kinh phí hỗ trợ miễn thuỷ lợi vùng khó khăn về nguồn nước để đảm bảo công bằng trong thực hiện miễn thuỷ lợi phí gần 165 tỷ đồng.
- Về cơ chế hỗ trợ phát triển giao thông nông thôn:
Đầu tư xây dựng cứng hoá đường giao thông nông thôn đã nâng cao chất lợng mạng lới giao thông của tỉnh, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Từ năm 2007 đến nay, trên địa bàn toàn tỉnh đã kiên cố hóa đớc 2.514km/3.562km (đạt 70,6%) với tổng kinh phí trên 157 tỷ đồng.
- Về đầu ưt hạ tầng mạng lới xe buýt và cơ chế hỗ trợ vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt:
Trên địa bàn tỉnh hiện có 8 tuyến xe buýt hoạt động ổn định với kinh phí đầu t, hỗ trợ gần 41 tỷ đồng. Việc hình thành các tuyến xe buýt đã kịp thời đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân, nhất là lao động ở nông thôn đi làm việc tại các khu công nghiệp, dịch vụ, đô thị, góp phần giảm ùn tắc và tai nạn giao thông.
- Về phát triển giáo dục - đào tạo:
Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển ổn định, vững chắc, quy mô phù hợp, đáp ứng yêu cầu ngời học. Hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học được quan tâm đầu t tốt hơn. Chất lượng giáo dục được nâng lên rõ rệt. Đội ngũ giáo viên được đào tạo theo chương trình chuẩn hóa. Phướng pháp dạy và học không ngừng được đổi mới. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển. Đến nay tỷ lệ phòng học mầm non được kiên cố hóa đạt 50%, tiểu học đạt 86%, THCS đạt 93%, THPT và GDTX đạt 99%. Tỷ lệ trường học đạt chuẩn Quốc gia: Mầm non đạt 54,2%, tiểu học đạt 72,9%, THCS đạt 30,8%, THPT đạt 27,8%; 100% trường phổ thông, trung tâm GDTX được trang bị đồng bộ đủ các thiết bị, đồ dùng dạy học tối thiểu, phòng thư viện cơ bản đạt chuẩn. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn ngày càng tăng. Tỷ lệ diện tích đất bình quân/học sinh: 12m2 (mầm non), 24,44% m2 (tiểu học), 19m2 (trung học). Hiện nay, toàn tỉnh có 284 trường chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 286 sinh viên/1 vạn dân. Kinh phí đầu tư, hỗ trợ 688 tỷ đồng.
- Về chương trình giảm nghèo, giải quyết việc làm:
Từ năm 2006 – 2010, ước tính giải quyết việc làm cho 114.010 ngời, trong đó xuất khẩu lao động 5.865 người. Đến cuối năm 2008, hoàn thành cơ bản mục tiêu xóa nhà tạm hộ nghèo. Hiện nay, không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 7%, bình quân giảm 2,2%/năm. Toàn tỉnh hiện có 37.735 hộ nghèo, hộ thoát nghèo sử dụng vốn vay của Ngân hàng chính sách xã hội, tổng d nợ 332,669 triệu đồng. Trong 4 năm (2006 – 2009) đã có 582.587 lượt người nghèo được mua thẻ BHYT, đã có 89.009 lượt học sinh nghèo, học sinh có Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, học sinh dân tộc thiểu số được miễn giảm học phí, cấp hỗ trợ học phí học nghề cho 14.552 người.
Chương trình 134 và Chương trình 135 triển khai có hiệu quả. Toàn tỉnh đã xây dựng được 4.560 nhà Đại đoàn kết cho hộ nghèo. Đến nay đã hỗ trợ cho 1.304 hộ xây dựng, cải tạo nguồn nước sinh hoạt; 18 công trình nước sinh hoạt cộng đồng thôn, bản vùng dân tộc thiểu số. Xây dựng nhà ở cho 989 hộ dân tộc thiểu số, giải quyết đất ở cho 80/91 hộ có nhu cầu. Đầu tư theo chương trình 135 là 40.489, 305 triệu đồng, trong đó nguồn vốn Trung ưương là 10.903 triệu đồng.
Kết quả tổ chức triển khai Chương trình, các chính sách giảm nghèo, giải quyết việc làm đã đi vào cuộc sống, có tác dụng thiết thực với người lao động, người nghèo, phù hợp với thực tế hiện nay, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế và tăng trởng bền vững. Kinh phí thực hiện khoảng 113 tỷ đồng.
- Về hỗ trợ cho một số chức danh hoạt động ở cấp xã, thôn, tổ dân phố và hỗ trợ hoạt động của Tổ dân phố, Tổ hòa giải và Tổ liên gia tự quản ở cơ sở:
Tỉnh đã đầu tư hỗ trợ trên 45,6 tỷ đồng để kiện toàn 10.430 tổ liên gia t quản, với 20.860 tổ trởng, tổ phó. Tổ liên gia tự quản đi vào hoạt động ổn định, nề nếp, hiệu quả góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
- Về chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn 2005 – 2010 và hỗ trợ nhân viên y tế thôn, bản:
Các chương trình quốc gia về y tế được duy trì và triển khai hiệu quả, trên 98% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm 7 loại vắc-xin, một số bệnh được loại trừ khỏi cộng đồng. Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm được duy trì thường xuyên. Công tác Dân số – KHHGĐ, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em có chuyển biến tích cực. Các chương trình quốc gia về y tế được duy trì và triển khai hiệu quả, hầu hết các Trạm y tế đều được đầu tư xây dựng nhà 2 tầng kiên cố và được bổ sung đầy đủ các trang thiết bị y tế; hết năm 2010, có 100% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn quốc gia về y tế, có 114/137 bác sĩ đang công tác ở các trạm y tế, đạt 83,2%. Tỷ lệ cán bộ công tác tại các trạm y tế là: 6,4 cán bộ /trạm. Ngân sách tỉnh đã đầu t 103,5 tỷ đồng hỗ trợ xây dựng, nâng cấp, sửa chữa cơ sở vật chất và mua sắm trang thiết bị y tế, thuốc thiết yếu cho các trạm y tế. Chất lượng khám chữa bệnh và tinh thần thái độ phục vụ người bệnh của đội ngũ cán bộ y tế được nâng lên.
- Về xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, đơn vị văn hoá giai đoạn 2006 – 2010:
Phong trào " Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đã hoạt động có hiệu quả, đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao, các thiết chế văn hoá ở cơ sở được đầu tư, bước đầu phục vụ nhu cầu sinh hoạt cộng đồng của nhân dân. Các phong tục, tập quán truyền thống được làm rõ, khẳng định được sức trường tồn của giá trị văn hoá. Đến cuối năm 2010, toàn tỉnh có 82% gia đình, 65% làng (thôn, khu phố) đạt tiêu chuẩn văn hoá. Có 117 nhà văn hoá/ 137 xã (đạt 85,4%); 1.156 nhà văn hoá/ 1.368 thôn (đạt 84,5%); 80/137 xã, phờng, thị trấn có sân chơi, bãi tập đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá thể thao cho các đối tượng. Toàn tỉnh có 1.264 di tích, trong đó có 65 di tích đã được xếp hang Quốc gia; số di tích được trùng tu, tôn tạo là 50 di tích. 1.285/1.310 làng, thôn xây dựng được hướng ước, quy ước. Đầu tư cho 17 Dự án Trung tâm Văn hoá - Thể thao; 100% cán bộ cơ sở được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng. Kinh phí thực hiện khoảng 200 tỷ đồng (tính cả nguồn kinh phí huy động từ các nguồn xã hội hoá)
- Về chương trình khuyến công và phát triển làng nghề giai đoạn 2006-2010:
Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết, giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp, làng nghề tăng trưởng bình quân 50%/ năm. Đào tạo nghề cho 5.105 lao động. Đã công nhận cho 55 thợ giỏi và 04 nghệ nhân; hỗ trợ đăng ký thướng hiệu cho 19 doanh nghiệp và 3 làng nghề truyền thống. Quy hoạch được 24 cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề và đến tháng 12/2009 đã quyết định thành lập 10 cụm công nghiệp làng nghề. Sản phẩm của làng nghề ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường, thu nhập của nguời lao động được cải thiện; việc thành lập cụm tiểu thủ công nghiệp làng nghề đã thu hút được các hộ cơ sở sản xuất vào cụm sản xuất tập trung, giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề nông thôn. Dự án RE II đã thi công trên 98% khối lợng đầu t xây dựng; 78/85 xã của dự án đã nghiệm thu, đóng điện đa vào sử dụng. Dự án RE II (mở rộng) đang hoàn thiện các thủ tục về đầu t và dự kiến sẽ thi công vào đầu tháng 11/2010 trên địa bàn 25 xã của tỉnh.
- Về việc hỗ trợ đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu cho các xã, phờng, thị trấn và hỗ trợ thu nhập cho các hộ gia đình và cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế – xã hội và an ninh – quốc phòng.
Đến nay, tổng số diện tích đất sản xuất nông nghiệp của 9 huyện, thành, thị được hỗ trợ là 27.627.810 m2, số tiền đề nghị hỗ trợ là 67,71 tỷ đồng.
Hết năm 2009, ngân sách tỉnh đã hỗ trợ 77,9 tỷ đồng đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho 80 công trình của 20 xã, phờng, thị trấn.
- Về việc giao đất dịch vụ, đất ở có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp:
Từ ngày 22/7/2004 đến ngày 31/12/2008, đã giao đất cho 719 dự án với tổng diện tích đất là 133.042.744,8 m2; trong đó, đất nông nghiệp là 41.462.825,7 m2. Tổng diện tích đất dịch vụ là 1.147.895,6 m2; trong đó đã chi trả được 283.774,5 m2, với kinh phí khoảng 24,8 tỷ đồng.
Đánh giá chung:
Sau hơn 4 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU của Tỉnh uỷ, kết quả cho thấy: Việc cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết được tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, đáp ứng kịp thời với yêu cầu của tình hình mới. Công tác thông tin tuyên truyền, tổ chức nghiên cứu, quán triệt, học tập Nghị quyết được các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể triển khai tích cực, tạo được sự quan tâm, đồng thuận cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết luôn được quan tâm chú ý, tăng cờng. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt thực hiện các chủ trưương của Đảng và Nhà nớc về chống lạm phát, ngăn chặn suy giảm kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hôi; tỉnh rất quan tâm, u tiên bố trí nguồn lực để đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thông, nông dân, Nghị quyết đã và đang thực sự đi vào cuộc sống, được nông dân đồng tình ủng hộ.
Về phát triển sản xuất, lâm nghiệp, thuỷ sản
Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản của tỉnh phát triển đúng định hướng, có nhiểu chỉ tiêu đạt và vượt mục tiêu đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết đề ra. Giữ được nhịp độ tăng trưởng chung; cơ cấu kinh tế nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hoá gắn với thướng hiệu, thị trường. Cơ cấu trong nội bộ ngành chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong cơ cấu của tỉnh giảm dần (từ 16,7% năm 2006 xuống còn 13,74% năm 2010); tỷ trọng ngành chăn nuôi trong sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ngày càng tăng (từ 39,1% năm 2006 lên 56,9% năm 2010), lâm nghiệp phát triển tương đối ổn định.
Mặc dù diện tích đất nông nghiệp giảm, nhưng do ứng dụng khoa học công nghiệp nên năng suất, sản lượng lương thực có hạt vẫn giữ ở mức ổn định (bình quân đạt 35,2 vạn tấn/năm, tăng bình quân 1,9%/năm).
Chăn nuôi tiếp tục phát triển, các tiến bộ khoa học kỹ thuật và phướng thức tổ chức chăn nuôi mới được áp dụng rộng rãi, nâng cao chất lợng giống gia súc, gia cầm; xuất hiện nhiều mô hình chăn nuôi trang trại theo hướng công ghiệp và bán công nghiệp tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, chất lượng cao; giá trị sản xuất tăng bình quân 14,3%/năm. Thuỷ sản phát triển khá, giá trị sản xuất tăng bình quân 7,3%/năm. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh, năm 2008 đạt 6.524,9 ha.
Về phát triển nông thôn
Hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn được đầu tư nâng cấp và xây dựng mới, bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc. Đến nay, 100% số xã có lưới điện quốc gia; 100% hộ dân nông thôn có điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất; 100% trường phổ thông, trung tâm GDTX được trang bị đồng bộ đủ các thiết bị, đồ dùng dạy học tối thiểu và có nhà, phòng thư viện cơ bản đạt chuẩn.
Hầu hết các trạm y tế được xây dựng nhà 2 tầng kiên cố và đầu tư bổ sung trang thiết bị y tế cơ bản, bố trí đủ số người theo quy định, các thôn, bản đều có nhân viên y tế.
Các thiết chế văn hóa được tăng cường, các xã, phường, thị trấn được đầu tư xây dựng sân chơi, bãi tập đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa thể thao cho nhân dân. Hầu hết trụ sở cấp xã được đầu tư xây dựng và nâng cấp đảm bảo khang trang. Tổ liên gia tự quản đi vào hoạt động có hiệu quả, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Kinh tế nông thôn ngày càng phát triển, kinh tế trang trại có bước chuyển biến tích cực cả về lượng và chất, từng bước khẳng định xu hướng phát triển tạo vùng hàng hóa, góp phần khai thác tốt tiềm năng đất đai, lao động ở nông thôn, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, nâng cao thu nhập cho nông dân, góp phần xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn, giải quyết việc làm, tăng của cải vật chất cho xã hội. Kinh tế hợp tác, các làng nghề truyền thống được quan tâm đầu tư, quy hoạch và khuyến khích phát triển.
Doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, thuỷ sản phát triển mạnh góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển, tạo công ăn, việc làm, tăng thu nhập cho lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Về đời sống nông dân
Một trong những thành công lớn của việc thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TU là tập trung nâng cao kiến thức cho ngời nông dân theo cơ chế mới, thời kỳ hội nhập, từ đó giúp người nông dân có cách nghĩ, cách làm mới phù hợp với mỗi gia đình.
Đến nay, toàn tỉnh đã không còn hộ đói, tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề hàng năm không ngừng tăng lên, thu nhập, đời sống của nông dân được cải thiện, nâng lên.
(Nguồn: Báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh).