Biển đảo trở thành nguồn cảm hứng cho các sáng tạo thi ca. Hàng loạt nhà thơ tên tuổi đều đã có những vần thơ hay về biển đảo quê hương.
Những ngày này, từ cuộc sống thường nhật đến các diễn đàn chính trị, khoa học, văn chương - nghệ thuật; từ người dân lao động đến các chính khách, nhà khoa học, nghệ sĩ… tất cả những ai mang trong mình dòng máu Việt Nam đều hướng ra biển Đông, nơi ấy có một phần máu thịt của Tổ quốc Việt Nam yêu dấu đang bị ngoại bang ngang nhiên xâm hại.
Những vần thơ từ 1954 - 1975
Như một lẽ thường tình, sau những năm tháng dài đánh đuổi giặc ngoại xâm trên đất liền, tan bóng quân xâm lược là tâm tưởng người dân đất Việt lại hướng về phía biển Đông. Giới nghệ sĩ nói chung và đặc biệt là các nhà thơ vốn là những người rất nhạy cảm trước những cơn ba đào của lịch sử nên họ không thể đứng ngoài, mà thường đi trước đón đầu tiên lượng về những điều sẽ xảy ra.
Sau chiến thắng Điện Biên lừng lẫy địa cầu, trong quãng 10 năm từ 1954 - 1964, các nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây (1945 - 1954) đã lấy biển đảo quê hương làm nguồn cảm hứng cho các sáng tạo thi ca của mình. Hàng loạt nhà thơ tên tuổi đều đã có những vần thơ hay về biển đảo quê hương. Nhà thơ Huy Cận có bài Đoàn thuyền đánh cá, Xuân Diệu có Biển, Văn Cao có Đảo, Hoàng Trung Thông có Biển...
Ở bài thơ Biển, nhà thơ Xuân Diệu đã thực sự thăng hoa khi ngợi ca biển Việt Nam trong vẻ đẹp lung linh huyền ảo. Biển và bờ như một cặp tình nhân đắm say trong tình yêu đầu đời:
Anh không xứng là biển xanh
Nhưng anh muốn em là bờ cát trắng
Bờ cát dài phẳng lặng
Soi ánh nắng pha lê
Bờ đẹp đẽ cát vàng
Thoai thoải hàng thông đứng
Như lặng lẽ mơ màng
Suốt ngàn năm bên sóng...
Anh xin làm biển biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt...
Những vần thơ trên đã mang đến cho người đọc, nhất là thế hệ trẻ một tình yêu nồng nàn, đằm thắm đối với biển đảo quê hương. Biển và bờ như hình với bóng, luôn gắn quyện vào nhau như cặp tình nhân. Hình thức nhân hóa biển và bờ một cách hết sức tài tình của ông vua thơ tình Xuân Diệu thực sự đã đem đến cho bài thơ một sức sống mới, sức sống của tuổi thanh xuân.
Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận như một bức tranh thủy mặc mô tả cảnh lao động của ngư dân ngày đêm bám biển đánh bắt cá tôm, làm giàu cho quê hương trong thời kỳ dựng xây đất nước:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Không khí lao động hăng say và sáng tạo của ngư dân đã mang lại nguồn thi hứng để Huy Cận viết nên những vần thơ này.
Những vần thơ từ sau 1975
Sau ngày đất nước sạch bóng quân xâm lược, đề tài biển đảo Tổ quốc như mạch ngầm trong mát khiến các nhà thơ vừa bước ra từ cuộc chiến khốc liệt nhất trong lịch sử dân tộc không thể không bị choáng ngợp. Hàng loạt nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ như: Hữu Thỉnh, Bằng Việt, Thanh Thảo, Nguyễn Khoa Điềm... đến các nhà thơ hậu chiến như: Trần Đăng Khoa, Nguyễn Hữu Quý, Nguyễn Việt Chiến, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Phan Quế Mai... đều có những vần thơ hay về biển đảo.
Nếu ở thời kỳ 1954-1964 chỉ có những bài thơ lẻ thì đến thời kỳ sau 1975 đã xuất hiện thêm nhiều trường ca, một thể loại anh hùng ca miêu tả cuộc sống và những người anh hùng trong chiến đấu.
Nhà thơ Hữu Thỉnh vốn là anh lính xe tăng vừa thoát ra khỏi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của toàn dân tộc, rất nhạy cảm và giàu suy tư khi ông bỏ ra tới 13 năm liền (1981-1994) như vắt kiệt sức để viết nên những vần thơ hay đến cháy lòng trong Trường ca Biển, tác phẩm được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật 2012. Ở phần Lời của sóng 4, ông viết:
Trên bãi cát những người lính đảo
Ngồi ghép nhau bao nỗi nhớ nhà
Chiều áo rộng vài vạt mây hờ hững
Họ cứ ngồi như chum vại hứng mưa
…
Đảo tái cát
Khóc oan hồn trôi dạt
Tao loạn thời bình
Gió thắt ngang cây.
…
Đất hãy nhận những đứa con về cội
Trong bao dung bóng mát của người
Cây hãy gọi bàn tay về hái quả
Võng gọi về nghe lại tiếng à ơi...
À ơi tình cũ nghẹn lời
Tham vàng bỏ ngãi kiếp người mong manh.
Biển không chỉ có vẻ đẹp nên thơ ngày lặng sóng cho người ngư dân dong buồm, buông chài, thả lưới đánh bắt cá tôm và những lứa đôi hò hẹn chốn bãi bờ mà biển còn có cả
Tao loạn thời bình
Gió thắt ngang cây.
Để cuối cùng là
À ơi tình cũ nghẹn lời
Tham vàng bỏ ngãi kiếp người mong manh.
Quả là đau, đau thật khi người hàng xóm khổng lồ miệng lúc nào cũng hảo hảo mà lòng dạ đổi thay chỉ vì giấc mộng bá quyền mà họ nỡ tham vàng bỏ ngãi nghĩa tình dài lâu.
Nguyễn Hữu Quý trong trường ca Hạ thủy những giấc mơ viết về biển đảo lại có một cái nhìn khác đối với những người lính giữ canh chừng biển đảo như giữ làng. Bởi trong cái làng - biển ấy luôn có mẹ ở bên. Mẹ dõi theo từng bước chân ta. Mẹ lẩn khuất vào từng cọng mồng tơi, rau dền, dây muống, quả ớt chín ngoài ô cửa sổ, vào từng câu dân ca ngọt ngào từ thuở ấu thơ nên các anh nào đâu quản ngại:
dẫu biết đi không về
lòng không nao núng
hồn thiêng
vằng vặc biển Đông...
Trường Sa
đồng đội tôi
những người lính
mặt trẻ
tóc già
những chàng trai tuổi mười tám, đôi mươi
tóc lấm tấm bạc...
Và để có thể đứng vững ngoài đảo xa canh giữ đất trời Tổ quốc, các anh buộc phải thích nghi, tìm ra một phương cách riêng để sống và chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược:
Tồn tại ở Trường Sa
phải bằng những tầm kích hợp lý
phải biết cắm sâu
cũng phải biết dẻo dai
biết dồn tụ chắt chiu
biết gồng mình chống đỡ
thuộc biển
thuộc trời
nghe mây
nhìn gió
để không phải trả giá đắt hơn!
Sức bền người có tính được không
mà Trường Sa muôn lớp người trụ vững
bão
ta sống chung với bão
hạn
ta sống chung với hạn
bạn
còn gì hạnh phúc hơn khi sống có bạn bè
thù
không phải điều ta muốn...
Bởi các anh ý thức rất rõ rằng, hơn ai hết, nơi đảo xa, biển rộng, mẹ hiền Tổ quốc đang cần các anh làm lá chắn, cột mốc và chốt chặn cuối cùng để khẳng định ranh giới, địa phận của làng và cũng là chủ quyền của quốc gia:
...vì Tổ quốc
chúng tôi là cột mốc
chúng tôi là trận địa tiền duyên
chúng tôi là lá chắn
chúng tôi là bệ phóng
chúng tôi là chốt chặn xâm lăng...
Nữ nhà thơ trẻ Nguyễn Phan Quế Mai cảm thấy quặn lòng đau khi xương thịt của Tổ quốc mình bị kẻ thù cắn xé. Trong bài thơ Tổ quốc gọi tên, chị đã thực sự xúc động khi viết những dòng thơ trĩu nặng, ám ảnh bao người:
Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình
Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá
Tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả
Nơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vây
Tổ quốc của tôi, Tổ quốc của tôi
Bốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉ
Thắp lên ngọn đuốc hòa bình, bao người đã ngã
Máu của người nhuộm mặn sóng biển Đông
Ngày hôm nay kẻ lạ mặt rập rình...
Trước đấy, Nguyễn Việt Chiến cũng đã có một bài thơ khá hay về biển đảo. Anh nhìn biển đảo Việt Nam từ thẳm sâu lịch sử anh hùng chống giặc ngoại xâm của ông cha qua bài thơ Tổ quốc nhìn từ biển:
Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa...
Anh ý thức rất rõ ràng là Tổ quốc Việt Nam có thể được nhìn sáng rõ từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng dù ở góc độ nào thì Hoàng Sa, Trường Sa vẫn là của Việt Nam:
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi
Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể
Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù
Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ
Thương Hòn Mê bão tố phía âm u
…
Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi than
Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình...
Có thể nói, bất cứ lúc nào và với bất kỳ ai, biển đảo luôn là tiếng gọi thiêng liêng của non sông Việt Nam. Mỗi khi biển đảo dậy sóng bởi quân xâm lược dù chúng đến từ đâu cũng đều làm cho lòng ta nhói đau, hun đúc thêm sức mạnh đoàn kết quyết giữ cho bằng được chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Đỗ Ngọc Yên
Theo Suckhoedoisong.vn