Tại một hội thảo mới đây, nhiều chuyên gia cho rằng việc cơ giới hóa trong nông nghiệp nước ta còn nhiều bất cập, chậm chuyển giao vào sản xuất. Năng lực nghiên cứu ứng dụng các máy phục vụ sản xuất nông nghiệp còn nhiều yếu kém, bất cập.
Nhiều loại máy móc nông nghiệp do nông dân sáng chế và đưa vào úng dụng nhanh.
Ảnh: VGP/Đỗ Hương
Vậy làm thế nào để thực thi tốt chương trình cơ giới hóa nông nghiệp, đưa nền nông nghiệp giàu tiềm năng của nước ta cất cánh?
Ông Vũ Anh Tuấn (Phòng Cơ điện, Cục Chế biến nông lâm thủy sản và Nghề muối (Bộ NN&PTNT) cho biết sau 10 năm thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam năm 2010 tầm nhìn tới năm 2020, ngành Cơ khí chế tạo máy kéo, máy nông nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng được 32,6% thị trường (thấp hơn mục tiêu của Chiến lược là 40-50% vào năm 2010). Chất lượng máy móc còn thiếu ổn định và hầu hết là máy có công suất nhỏ.
Nguyên nhân của những bất cập
Theo Cục Chế biến nông lâm thủy sản, mặc dù nhiều khâu có tỷ lệ cơ giới hóa cao, song trình độ trang bị còn rất lạc hậu, thể hiện hầu hết các máy làm đất công suất nhỏ, chi phí chỉ thích hợp với quy mô hộ và đất manh mún, cơ giới hóa mới tập trung chủ yếu cho công đoạn cấy lúa.
Đến nay, trang bị động lực bình quân trong sản xuất nông nghiệp cả nước đạt 1,6 mã lực (HP)/ha canh tác, đối với lúa đạt 2,2 HP/ha canh tác, tăng gần gấp 2 lần so với năm 2008 nhưng so với các nước trong khu vực và châu Á thì của ta vẫn thấp hơn nhiều (Thái Lan 4 HP/ha, Trung Quốc 8 HP/ha, Hàn Quốc 10 HP/ha).
Tại một hội thảo mới đây, nhiều chuyên gia nêu ý kiến việc cơ giới hóa trong nông nghiệp còn nhiều bất cập, chậm chuyển giao vào sản xuất. Năng lực nghiên cứu ứng dụng các máy phục vụ sản xuất nông nghiệp còn nhiều yếu kém, bất cập. Nhiều đề tài nghiên cứu thuộc Chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước và cấp Bộ thuộc lĩnh vực cơ điện nông nghiệp được triển khai, song không ít đề tài chưa gắn với nhu cầu của thực tế, thiếu tính sáng tạo, chưa phù hợp nên không được sản xuất chấp nhận.
Theo ông Tuấn, nguyên nhân then chốt là do cơ chế nghiên cứu và chuyển giao kết quả các đề tài khoa học công nghệ còn nhiều bất cập. Quá trình từ nghiệm thu đề tài chuyển sang dự án sản xuất thử nghiệm thường kéo dài nên không đáp ứng kịp thời yêu cầu của sản xuất. Điển hình như các mẫu máy gặt đập liên hợp lúa, máy thu hoạch muối và không ít đề tài khác. Trên thực tế, rất ít sản phẩm hàng hóa, có thương hiệu xuất xứ từ kết quả nghiên cứu, chuyển giao khoa học công nghệ trong lĩnh vực cơ điện nông nghiệp.
Mặt khác, các doanh nghiệp Nhà nước chậm đổi mới. Doanh nghiệp tư nhân thì qui mô nhỏ, năng lực hạn chế, thiếu chuyên môn hóa, thiếu hợp tác liên kết tổ chức sản xuất…
Còn theo ông Đoàn Xuân Hòa (Phó Chủ tịch Hội Cơ khí nông nghiệp Việt Nam), cả nước hiện có khoảng 100 cơ sở chế tạo, song phần lớn là quy mô nhỏ, sản xuất chất lượng thấp, quy trình sản xuất khép kín.
Về tác động của chính sách hỗ trợ thúc đẩy cơ giới hóa nông nghiệp, ông Đoàn Xuân Hòa cho rằng, tuy hệ thống chính sách để phát triển ngành Cơ khí đã tương đối đẩy đủ nhưng thực tế chỉ có một số cơ chế, chính sách được triển khai. Còn nhiều chính sách vướng mắc về cơ chế nên người dân và doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận được với nguồn vốn hỗ trợ. Ông Hòa nêu ví dụ như chính sách nông dân mua máy thì được hỗ trợ vay vốn với lãi suất ưu đãi, được hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay trong năm đầu tiên nhưng do cơ chế giải ngân chậm, nên nhiều chính sách không đến được với nông dân…
Mặc dù các ngành chức năng tích cực triển khai chính sách cho vay hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp nhưng có thể thấy số lượt khách hàng và doanh số cho vay còn thấp. Nguyên nhân được bà Phạm Thị Thanh Tùng (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) chỉ ra là do việc quy định danh sách chủng loại máy, thiết bị được hưởng chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp hiện nay còn hạn chế.
Bên cạnh đó, lãi suất tín dụng đầu tư của Nhà nước còn cao, hiện nay là 9,6%/ năm, trong khi mặt bằng lãi suất cho vay thương mại bình quân của các ngân hàng ở mức từ 9-10%/năm. Do không có sự chênh lệch nhiều nên chưa thu hút được các tổ chức, cá nhân (đặc biệt là các doanh nghiệp) đầu tư các dự án dây chuyền máy móc, thiết bị, các dự án chế tạo máy, thiết bị sản xuất nông nghiệp.
Hoàn thiện chính sách, cơ chế
Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam Trần Đức Viên cho rằng, để chính sách đi vào thực tiễn, cần phải hiện thực hóa chính sách bằng các cơ chế cụ thể, đặc biệt cho 3 vị trí quan trọng là: Doanh nghiệp, nông dân, nhà nghiên cứu khi đầu tư vào khoa học công nghệ, đầu tư cho cơ giới hóa.
“Nếu không đầu tư cho nghiên cứu khoa học trong nước thì các doanh nghiệp sẽ chỉ đi nhập khẩu máy móc từ Trung Quốc về lắp ráp”, ông Trần Đức Viên nhấn mạnh. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám cũng thừa nhận, vẫn còn tồn tại một số bất cập trong triển khai Quyết định 68/2013/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp. Vì vậy, Bộ đang chỉ đạo các đơn vị thực hiện sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chính sách, trước hết nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa, trang thiết bị vào nông nghiệp.
Để đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp tăng gấp đôi hiện nay, đạt 3,2 HP/ha canh tác và giải quyết những bất cập trong chính sách, theo ông Vũ Văn Tám, trước tiên Bộ NN&PTNT sẽ giao cho các cơ quan liên quan thành lập tổ rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế để những bất cập sẽ được đề xuất trình Chính phủ trong thời gian sớm nhất. Mặt khác, Bộ cũng sẽ xác định lợi thế của từng vùng, lựa chọn loại hình máy móc, thiết bị phù hợp với từng cây, con cụ thể, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư máy móc, thiết bị vào sản xuất và triển khai có hiệu quả các chính sách kích cầu đối với cơ giới hóa nông nghiệp.
Với địa phương, Bộ NN&PTNT yêu cầu rà soát lại qui hoạch, chỉ đạo sản xuất theo hướng tập trung chuyên canh, hình thành cánh đồng lớn nhằm tạo điều kiện cho nông dân, doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất nông nghiệp áp dụng nhanh cơ giới hóa các khâu sản xuất, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.
Theo Đỗ Hương/Chinhphu.vn