Làng Tứ Yên, huyện Sông Lô có đầm Miêng được sử sách ghi là hồ Điển Triệt, nơi mà thế kỷ thứ VI Lý Bí đắp thành chống giặc nhà Lương. Nhân dân thường tiếp tế lương khô, trong đó có món chè kho cho quân lính của Lý Nam Đế. Sau này nhân dân dựng miếu để thờ Lý Nam Đế và hằng năm mở tiệc vào ngày 24, 27 tháng 5 (âm lịch), cỗ cũng phải có món chè kho để tưởng niệm sự kiện lịch sử trên.
Chè kho nấu bằng đỗ xanh, gạo nếp, mật và pha nước gừng. Đỗ xanh, chọn hạt mẩy, nhặt bỏ hạt lép, hạt nhọn, ngâm đãi bỏ vỏ, cho vào nồi 30 đun sôi, khi hạt mềm bóp vỡ mới đổ vào gạo nếp hoa vàng đãi sạch nấu lẫn đậu xanh. Khi hạt gạo đã mềm, đổ mật giọt vào cùng với ít nước gừng. Hai người con trai khoẻ mạnh, mỗi người cầm một đũa cả đẽo to như cái dầm bơi đò bằng gốc tre dày bản rộng bằng bàn tay, trên đẽo nhỏ thành cán cầm. Đũa cả dài chừng 1m được quấy đều tay liên tục để khỏi bị cháy dưới đáy nồi. Khi chè chín đặc như món xôi vò đổ chè vào các bát loa to. Khi chè nguội, cắt thành từng miếng lấy ra xếp vào đĩa bày cỗ cúng, sau đó chia phần cho dân làng.
ST