Miếu Trúc Lâm được xây dựng từ thời Hậu Lê (thế kỷ XVIII), đến thời Nguyễn trùng tu lớn và về sau có nhiều lần tu sửa lớn nhỏ khác. Theo lời kể của các cụ cao niên của địa phương thì trước đây ở làng có 2 ngôi miếu, miếu Trúc là thờ Lân Hổ Đô Thống đại vương chỉ có một toà nằm dọc (nay là phần hậu cung) và miếu thờ đức thánh Mẫu cách miếu Trúc Lâm khoảng 300m . Về sau đưa ngai thờ của thánh Mẫu về miếu Trúc Lâm và cũng di chuyển luôn ngôi miếu này về làm tiền tế như hiện nay. Điều này phù hợp với bình đồ kiến trúc và đặc điểm kiến trúc của miếu Trúc Lâm hiện nay bởi hầu hết kiến trúc miếu thời Hậu Lê đều không tách biệt giữa các đơn nguyên “tiền tế” và “hậu cung” mà chỉ có một toà nhà dọc khá đơn giản có khám thờ (gác lửng) bít bức bàn, “đảm nhiệm” luôn chức năng của thượng cung.
Miếu Trúc Lâm tọa lạc trên một khu đất có diện tích 2.497m2, có nhiều cây xanh tỏa bóng mát. Riêng các đơn nguyên kiến trúc lại được xây dựng ở vị trí cao hơn nền đất xung quanh khoảng gần 2m, khiến chúng ta liên tưởng đến hình tượng miếu được đội trên lưng một con rùa. Đi qua bậc tam cấp và bậc hèm bó vỉa bằng đá xanh của cổng chính là vào đến tòa tiền tế của miếu Trúc Lâm. Tòa tiền tế được đặt trên mặt nền lát gạch bát có kích thước 8,9m x 6m, gồm có 3 gian, gian chính giữa bày án gian và các đồ thờ khác. Hai gian cạnh đặt giá để đồ lễ và ngựa thờ. Xung quanh không xây tường bao. Mái lợp ngói mũi, trên đường bờ nóc có đắp hình “lưỡng long chầu nguyệt”, đầu kìm là 2 đầu rồng hướng ra phía ngoài kết hợp với bờ nóc tạo thành kiểu đòn kiệu. Tàu mái của miếu lại được nằm trên của thân 16 bẩy và 4 kẻ góc, các bẩy này được ăn vào phần trên của các cột quân [hiên], đuôi bẩy (nghé bẩy) tì vào các xà nách. Phía trên xà nách là các kẻ kiểu “cổ ngỗng” với thân mình uốn cong mềm mại, một đầu đỡ ván nong, một đầu ăn vào thân cột cái, phần nghé kẻ tì vào phía dưới câu đầu.
Hậu cung miếu Trúc Lâm được xây dựng cách tiền tế bởi một khoảng sân trời rộng 2m, bề rộng là 6,1m, chiều sâu của hậu cung là 7,8m chia thành 3 gian. Đây chính là phần kiến trúc nguyên gốc của miếu Trúc Lâm, với một đơn nguyên kiến trúc nằm dọc theo kiểu “ nhất gian nhị hạ” với một gian chính giữa đảm nhiệm là “trục thần đạo” và là nơi diễn hành các nghi thức, nghi lễ. Phần mái ở hai bên được kéo dài xuống tạo thành một dạng hành lang ở hai bên tả hữu, hai bên bít gỗ kín đáo, mặt đốc có tường bao bằng gạch. Phía trước cửa vào có 2 bức cánh gà hai bên đắp nổi phù điêu hình rồng bay, phượng múa được tô màu sặc sỡ với 3 màu chủ đạo là xanh, vàng, trắng. Sở dĩ ở miếu Trúc Lâm thường xuất hiện đề tài trang trí rồng (dương - tính nam), kết hợp với phượng (âm - tính nữ) một phần cũng là vì nơi đây thờ đức thánh Cả và đức thánh Mẫu.
Muốn vào bên trong miếu, ta phải bước qua bậc hèm cao 40cm được tạo bởi xà ngưỡng nhằm ngăn cách giữa thế giới thần linh và thế giới trần tục, khi bước qua xà ngưỡng này chúng ta như bước vào một không gian huyền bí, linh thiêng. Hệ thống cửa miếu được chia làm 3 phần, cửa chính gian giữa là cửa bức bàn 4 cánh kiểu “cánh lật, chốt góc”, chỉ mở vào những ngày đại lễ, 2 gian bên chỉ có 2 cánh nhỏ. Bước qua cửa là gian ngoài đặt hương án, đồ thờ. Gian giữa với chức năng gần giống như “ống muống” trong bình đồ kiến trúc hình “chữ Công - 工”, ở gian này có giật cấp sàn gỗ cao 0,5m để trống theo kiểu “sân chầu”. Gian trong cùng có khám thờ gác lửng, cao hơn mặt nền 1,5m tạo thành thượng cung, đây là nơi đặt long ngai, bài vị của các Thánh. Khám thờ được bưng kín bằng gỗ, phía mặt trước là cửa bức bàn 4 cánh.
Giá trị nghệ thuật điêu khắc gỗ được thể hiện trong miếu Trúc Lâm thông qua:
- Bức chạm trên cốn đốc phía trước hậu cung với nghệ thuật “chạm kênh bong”. Toàn bộ bức chạm được thể hiện trên các thân gỗ nguyên khối, được đục chạm tinh xảo phần ngoài tạo trang trí với đề tài “rồng ổ” [cửu long]. Chính giữa bức chạm là hình đầu rồng, bộ mặt hiền lành với 2 tai thú to, vểnh, mắt tròn lồi, mũi to nở, miệng rộng nhe hai hàm với các răng đều nhau, bờm tóc tỏa ra 2 bên tạo thành các đao mác, vân mây cách điệu, chân có 3 móng nhọn sắc. Xung quanh rồng lớn có 8 hình rồng thân rắn trơn, nhỏ, đầu nhô lên, mình ẩn trong các đao mác. Đề tài, phong cách trang trí này xuất hiện khá nhiều trong trang trí ở các kiến trúc thời Hậu Lê (thế kỷ XVII - XVIII).
- Chạm trên các đầu dư ở hậu cung: Các đầu dư vốn không mang nhiều chức năng chịu lực mà chỉ mang tính chất trang trí là chủ yếu. Nghệ thuật chạm khắc ở các đầu dư là nghệ thuật “chạm lộng”, đầu rồng được chạm nhiều mặt trên thân gỗ tròn ở phần nhô ra của các con rường phía dưới câu đầu. Không giống như trang trí rồng ở cốn, các đầu dư được thể hiện là những đầu rồng dữ tợn như để kiểm soát mọi người khi đã bước vào “cung cấm”. Đây cũng là đặc điểm nổi bật của trang trí kiến trúc thời Hậu Lê.
- Chạm khắc trên các thân bẩy ở tiền tế: hầu hết các bẩy tại tiền tế đều có một mô - tuýp trang trí khá giống nhau với đề tài “long tàng cúc diệp” tức là rồng ẩn trong lá cúc hay “cúc diệp hóa long” là lá cúc hóa rồng.
Bên cạnh đó, các cốn nách trong hậu cung đều được chạm khắc trang trí thành các thân rồng lượn sóng cách điệu đỡ lấy mái, các dép hoành đều chạm “chữ Thọ” như làm nhẹ đi sức nặng của mái. Các nghé bẩy bên ngoài tiền tế cũng được chạm khắc thể hiện thành phần đuôi của con rồng, còn đầu và mình chính là các thân bẩy.
Đình Phương Viên, miếu Trúc Lâm cùng với đình Thổ Tang, chùa Tùng Vân tạo thành quần thể di tích lịch sử văn hoá - kiến trúc nghệ thuật có nhiều giá trị của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và của cả nước nói chung. Mặt khác quần thể di tích này lại nằm trong một địa phương có bề dày truyền thống và năng động trong phát triển kinh tế. Tin tưởng rằng thị trấn Thổ Tang cũng như huyện Vĩnh Tường sẽ là một địa chỉ hấp dẫn về văn hoá - lịch sử từ đó phát triển du lịch, dịch vụ thu hút du khách thập phương về nơi đây./.
ST