Để giúp bà bầu giải toả những nỗi lo liên quan đến sức khỏe, Trung tâm y học Cantor, New York, Mỹ, vừa khuyến cáo về các xét nghiệm cần làm trong giai đoạn thai kỳ.
1. Khám răng
Trong thời gian mang thai, phụ nữ nên đi khám răng, kiểm tra sức khỏe răng lợi để phát hiện sớm nguy cơ viêm nhiễm, bệnh bên trong cơ thể cũng như sức khoẻ cục bộ của răng miệng. Qua nghiên cứu ở phụ nữ mắc bệnh nướu răng cho thấy, có tỉ lệ sinh non ở nhóm mắc bệnh răng lợi cao gấp 7 lần so với nhóm người không mắc bệnh. Ngoài ra, khoa học còn phát hiện thấy phụ nữ khi mang thai và những người dùng thuốc tránh thai là nhóm mắc bệnh viêm răng lợi cao nhất. Đơn giản khi mang thai, hoóc-môn thay đổi đột biến làm cho cơ thể dễ mẫn cảm với môi chất gây bệnh. Theo khuyến cáo Hiệp hội nha khoa Mỹ (ADA) trung bình mỗi năm đi khám 2 lần, phụ nữ mang thai nên khám 3 - 4 lần/năm, riêng nhóm bị chảy máu chân răng, nướu thì nên đi khám sớm và thường xuyên hơn.
2. Xét nghiệm TSH
TSH test là phương pháp thử máu, phát hiện khả năng mắc bệnh suy giáp (hypothyroid) hoặc cường giáp (hyperthyroid), hiểu được sức khỏe cụ thể của hoóc-môn tuyến giáp. Theo Trung tâm y học Mercy Baltimore (Mỹ), phụ nữ thai kỳ và sau sinh dễ mắc phải căn bệnh này. Trung bình bệnh tuyến giáp có thể ảnh hưởng từ 5 - 10% phụ nữ. Phần lớn trường hợp mắc bệnh đều không có dấu hiệu, chỉ đến khi quá mệt mỏi, tăng cân mới phát hiện ra qua khám bệnh. Phần lớn là suy giáp và cường giáp. Nếu mắc phải những căn bệnh này ở thể nặng mà mang thai thì rủi ro sinh non, xảy thai rất cao, chưa kể những ảnh hưởng đến trí thông minh của trẻ. Nếu suy giáp thì nên tư vấn dùng thuốc, còn mắc bệnh cường giáp (basedow) nặng có thể điều trị bằng iốt phóng xạ để giảm quá trình bài tiết hoóc-môn tuyến giáp. Mỗi năm nên đi khám một lần.
3. Phép thử test CBC
CBC (Complete Blood Count) là phép thử đếm máu toàn diện để kiểm tra tế bào máu trắng, tình trạng sức khoẻ tuỷ xương và hệ thống miễn dịch. Phép thử test CBC sẽ cho biết số lượng tế bào máu trắng (quá nhiều nghĩa là bị viêm nhiễm), hemoglobin (quá thấp là thiếu máu) và tiểu cầu (nếu thấp có nghĩa là máu khó đông). Sở dĩ những người chuẩn bị mang thai cần phải làm phép xét nghiệm này là vì phụ nữ thường có có kinh, mất máu khi sinh nên dễ bị thiếu máu, làm cho cơ thể suy nhược. Nếu thiếu máu, bác sĩ sẽ tư vấn cho bổ sắt và sau vài tuần kiểm tra lại, mỗi năm nên đi khám 1 lần.
4. Huyết áp và cholesterol
Hai phép thử này giúp đánh giá tình trạng sức khoẻ tim mạch, đặc biệt là rủi ro mắc bệnh tim trong giai đoạn mang thai, sinh con. Đo huyết áp tốt nhất là bằng phương pháp thủ công, đo bằng thiết bị quấn xung quanh cánh tay. Thử máu để kiểm tra HDL (mỡ máu tốt); LDL (mỡ máu xấu) và triglyceride. Tầm quan trọng của hai phép thử này nhằm giúp chuyên môn đánh giá thực trạng sức khỏe của sản phụ, kể cả những người còn trẻ. Huyết áp tối ưu là 120/80mmHg, LDL cholesterol nên ở dưới mức 130 và HDL nên ở trên 50.
5. Xét nghiệm Pap Smear
Pap Smear (tạm hiểu là phết mỏng tế bào cổ tử cung) phát hiện sớm nguy cơ mắc bệnh ung thư cổ tử cung. Đây là kỹ thuật không gây khó chịu, đau đớn, đơn giản bằng cách lấy một ít tế bào ở cổ tử cung rối đem xét nghiệm để tìm ra những dấu hiệu bất thường, đặc biệt là tìm ra virút HPV, thủ phạm gây bệnh qua con đường sinh hoạt tình dục. Những người có gia đình, sinh hoạt tình dục khoa học cũng có thể mắc phải căn bệnh này. Nếu qua thử test thấy dấu hiệu bất thường, bác sĩ có thể làm sinh thiết cổ tử cung để kiểm tra lại sức khoẻ tế bào. Nếu có mối quan hệ chung tình thì sau 3 năm đi kiểm tra một lần, ngược lại có mối quan hệ với nhiều đối tác thì 3 - 6 tháng nên đi khám một lần.
6. Kiểm tra da
Mục đích của việc kiểm tra là để phát hiện nguy cơ mắc bệnh ung thư da. Theo Học viện da liễu Mỹ (AAD), đây là căn bệnh phổ biến ở nhóm phụ nữ trẻ từ 25 - 29 tuổi do sắc tố thay đổi trong quá trình mang thai và sinh con. Hầu hết các trường hợp này là vô hại, nhưng đôi khi lại dẫn đến ung thư. Những người có tiền sử gia đình về ung thư da nên báo cho bác sĩ biết. Khi phát hiện thấy các nốt tình nghi xuất hiện trên da, bác sĩ có thể làm một số xét nghiệm cần thiết. Mỗi năm nên đi khám một lần.
7. Xét nghiệm đường huyết
Mục đích của xét nghiệm này là phát hiện sớm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ. Nhóm phụ nữ có người trong gia đình mắc bệnh đái tháo đường, bệnh cao huyết áp, béo phì thì nên làm xét nghiệm này, kể cả những người tăng cân nhanh khi mang thai. Theo số liệu thống kê, những phụ nữ mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ có rủi ro mắc bệnh đái tháo đường týp II vào cuối đời tăng tới 50%. Vì lý do nói trên nên khám, biết bệnh sớm để thay đổi lối sống và cách ăn uống sẽ có tác dụng tích cực. Phụ nữ ngoài 40 nên đi khám mỗi năm 2 lần, riêng nhóm có tiền sử nên đi khám sớm hơn (trước 30 tuổi). Có thể tư vấn bác sĩ làm phép xét nghiệm có tên là A1C để biết hàm lượng đường liên kết vào các tế bào máu đỏ. Nếu A1C trên 7% thì rủi ro mắc bệnh đái tháo đường rất cao.
8. Xét nghiệm độ khoáng của xương
Phép xét nghiệm này có tác dụng biết trước nguy cơ mắc bệnh loãng xương, căn bệnh khá phổ biến ở phụ nữ. Bác sĩ dùng một thiết bị chuyên dụng có tên là DEXA (máy đo hấp thụ photon bằng năng lượng). Phù hợp cho nhóm phụ nữ trẻ trước 35 tuổi, nhất là nhóm có tiền sử gia đình mắc bệnh loãng xương, nhóm dùng thuốc điều trị bệnh tuyến giáp, sử dụng steroid trị hen hoặc Ezeme. Nếu mật độ khoáng của xương thấp thì khi nuôi con bằng sữa mẹ tỉ lệ này lại càng giảm và dễ gây bệnh loãng xương, mỏng và giòn xương. Bác sĩ có thể khuyến cáo một số cách ăn uống để bổ sung đủ canxi trong giai đoạn mang thai, sinh con, tăng cường luyện tập giảm cân, dùng thuốc bổ có chứa canxi. Những khuyến cáo cụ thể còn dựa vào kết quả xét nghiệm của từng người, nếu xương phát triển bình thường thì không nhất thiết phải kiểm tra mà chờ đến khi mãn kinh hãy đi khám tiếp.
Theo DS. Trang Nhung/suckhoedoisong.vn