Bàn chân ấm và cái đầu mát là sinh lý bình thường của cơ thể, là biểu hiện của cân bằng âm dương.
Người lớn tuổi do áp lực trong công việc và cuộc sống, thiên quý suy nên các chức năng tạng phủ bị suy yếu dẫn đến âm dương mất cân bằng mà dẫn đến hiện tượng bàn chân lạnh và đầu nóng. Xin giới thiệu phương pháp dùng thuốc và không dùng thuốc để giúp tái lập quân bình âm dương cho cơ thể thông qua tác động đến bàn chân.
Đầu mát, chân ấm
Theo Đông y, người khỏe là người có cuộc sống hài hòa cân bằng âm dương, người không khỏe hay là người có bệnh là người mất cân bằng âm dương, cho nên mục đích cuối cùng của người thầy thuốc Đông y là lập lại cân bằng đó. Theo quan niệm Đông y, Thiên (trời) là dương, Địa (đất) là âm, nếu âm dương hài hòa, âm phải thăng lên, dương phải giáng xuống giao nhau tạo nên con người (Nhân), âm dương giao hòa vạn vật hóa sinh sẽ sinh sôi nảy nở phát triển. Học thuyết tam tài: Thiên - Nhân - Địa giải thích cuộc sống trong tự nhiên, vũ trụ (đại vũ trụ), con người (Nhân) là tiểu vũ trụ sẽ ứng với trời đất (Thiên - Địa). Đầu tượng trưng cho trời (Thiên), Chân tượng trưng cho đất (Địa), Bụng tượng trưng cho người (Nhân), âm dương trong cơ thể phải giao hòa thì cơ thể mới khỏe, tức là “đầu mát, chân ấm thì bụng mới tiêu hóa tốt”. Nhưng theo thời gian, nhất là tuổi ngày càng cao thì âm dương từ từ tách rời nhau đi vào cái thể của âm dương, cái ban đầu, cái nguyên sơ của cuộc sống dương không còn giáng do công việc, do tuổi tác nên đầu bắt đầu thăng lên biểu hiện cái đầu nóng trong công việc, học tập, trong cuộc sống; âm không còn thăng nữa mà đi vào thể của âm là giáng nên bàn chân lạnh. Để cân bằng âm dương trong cơ thể khi lớn tuổi, hoặc do áp lực công việc thì cái đầu phải luôn luôn mát và bàn chân phải ấm.
Toàn bộ nhân thể không ra ngoài hai chữ âm dương tức là thủy với hỏa, mà hai chữ thủy hỏa tức là khí huyết.
Hải Thượng Lãn Ông
Học thuyết thủy hỏa hay còn gọi là học thuyết tâm thận, được Hải Thượng Lãn Ông xây dựng dựa trên cơ sở của các học thuyết âm dương, ngũ hành, tạng tượng của đông phương. Với thuyết âm, dương, thủy thuộc nước thuộc âm, hỏa thuộc lửa thuộc dương. Với thuyết ngũ hành, thủy hỏa lại là hai hành tương khắc với nhau. Với thuyết tạng tượng, hai tạng tâm, thận lại nằm trong phạm vi “ngũ tạng”. Tuy nhiên, chúng lại thường xuyên có sự giao nhau trong cuộc sống, hai thứ đó luôn có mối quan hệ hữu cơ, ví như ánh sáng của mặt trời là nguồn gốc tạo ra sức sống của muôn vật, nước thì nuôi sống muôn loài. Trên cơ sở như vậy, Hải Thượng Lãn Ông lấy sự cân bằng của hai tạng tâm thận trong cơ thể làm gốc với nguyên tắc “Giáng tâm hỏa và ích thận thủy”. Ông cho rằng “Con người cũng như vũ trụ, muốn tồn tại, phải có hỏa”, cái hỏa trong con người trước hết thuộc tạng tâm (quân hỏa), tiếp theo là cái hỏa của thận (tướng hỏa). Hai thứ hỏa này luôn được cân bằng với phần “thủy” của tâm huyết: Phần âm của tâm và thận thủy: thận âm. Hải Thượng cho rằng, bệnh tật phát sinh trong con người là do sự thiên lệch của thủy và hỏa, tức có sự mất cân bằng của hai tạng tâm và thận. Ví dụ:
- Thủy suy không giữ được hỏa - hỏa bốc lên: có biểu hiện: có bốc nóng, nhức đầu, hoa mắt, đỏ mặt, nóng ngực, khó thở, tim đập nhanh…
- Hoặc hỏa suy - thiếu sự ôn dương, có biểu hiện: người lạnh, chân tay lạnh, ăn uống chậm tiêu, đầy bụng, ỉa lỏng, người mệt mỏi, sợ lạnh…
Người ta vì có chân thủy, chân hỏa trong bẩm khí tiên thiên nên trong cơ thể mới luôn luôn có sự ôn dưỡng và nhu dưỡng. Nhưng để thực hiện việc ôn dưỡng và nhu dưỡng khí với huyết chứ không phải chân thủy, chân hỏa. Chân thủy, chân hỏa là cái gốc bẩm sinh từ tiên thiên mà do thận làm chủ. Khí huyết là cái ngọn; sinh ra từ hậu thiên do tâm can, tỳ phế là chủ về khí.
Có chân thủy, chân hỏa mới có nguồn sinh ra khí huyết, có khí huyết thì chân thủy, chân hỏa mới có công dụng hóa sinh và tồn tại. Cho nên khi nói đến khí là có sự liên hệ đến hỏa đến dương; khi nói đến huyết là có sự liên hệ đến thủy đến âm. Hải Thượng Lãn Ông nói; “Toàn bộ nhân thể không ra ngoài hai chữ âm dương tức là thủy với hỏa, mà hai chữ thủy hỏa tức là khí huyết”.
Trong phạm vi bài này tôi xin giới thiệu các phương pháp tập luyện không dùng thuốc và dùng thuốc để giữ bàn chân luôn ấm, tạo cân bằng âm dương, thủy hỏa để cơ thể luôn luôn khỏe.
Dùng thuốc
Thuốc uống trong: Hải Thượng Lãn Ông cho rằng, đối với người mà chân dương thịnh thì phải bổ âm, người chân âm thịnh thì phải bổ dương; tuy vậy khi bổ âm phải kèm theo vị bổ dương để không ảnh hưởng đến tỳ vị. Thông thường để bổ âm, Hải Thượng khuyên dùng phương Lục vị; còn khi bổ nguyên khí củng cố chân hỏa của thận thì dùng phương Bát vị. Còn người âm dương đều hư thì ông khuyên dùng phương Thập toàn đại bổ.
Ngoài ra, Hải Thượng đã vận dụng phép biến phương vào hai phương lục vị và Bát vị để tạo ra tới hơn 50 phương thuốc khác nhau để trị rất nhiều loại bệnh tật trong cơ thể. Chẳng hạn từ phương Lục vị gồm 6 vị thuốc: thục địa 8 lạng, phục linh, đan bì, trạch tả, mỗi vị 3 lạng, sơn thù du, hoài sơn, mỗi vị 4 lạng (mỗi lạng 37,5g). Các vị luyện mật ong làm hoàn ngày uống 12 -16g, dùng để chữa thận âm hư,tinh khô, huyết kiệt, đau lưng, mỏi gối, hoa mắt ù tai, tiêu khát. Hải Thượng đã gia cúc hoa, kỷ tử mỗi thứ 3 lạng vào phương Lục vị tạo ra phương Kỷ cúc địa hoàng hoàn, trị thận âm hư gây hoa mắt, thị lực giảm. Cũng với cách làm tương tự, ông gia đương quy, bạch thược, kỷ tử, cúc hoa, thạch quyết minh, bạch tật lê vào Lục vị để có phương Minh mục địa hoàng hoàn, trị mắt khô, quáng gà, giảm thị lực.
Đối với cổ phương Bát vị hoàn: thục địa 8 lạng; sơn thù du, hoài sơn, mỗi vị 4 lạng; đan bì, trạch tả, phục linh; mỗi vị 3 lạng, phụ tử, nhục quế, mỗi vị 1 lạng. Các vị luyện mật ong làm hoàn ngày uống 12 - 16g, dùng để bổ thận dương, trị chứng mệnh môn suy, người gầy, lưng gối đau lạnh tiểu không lợi hoặc không kiềm chế được. Tiểu đêm nhiều lần, Hải Thượng đã dùng quế chi thay quế nhục để có phương Kim quỹ thận khí hoàn, trị phù do thận, khí huyết bị ứ trệ. Bát vị hoàn gia ngưu tất, xa tiền thành Tế sinh thận khí hoàn, trị thủy thũng, phù nề, bụng đầy trướng.
Thuốc ngâm chân: ngoài ra còn có thể sử dụng phương pháp ngâm chân bằng nước thuốc ấm trước khi đi ngủ cũng là một cách làm ấm bàn chân hiệu quả và giúp ngủ ngon.
Công thức 1: ngâm chân với nước muối ấm: cho 1 dúm muối hột vào nước ấm, khuấy đều, ngâm từ 15 - 20 phút đến khi nước nguội.
Công thức 2: ngâm chân làm ấm chân và giúp ngủ ngon với bài thuốc:
Muối hột: 6g, đại hồi: 7g, quế chi: 7g, thiên niên kiện: 10g, ngải cứu:15g, trinh nữ:15g, lá vông:15g.
Công thức 3: nếu bàn chân lạnh kèm đau nhức khớp dùng bài thuốc:
Muối hột: 5g, cốt toái bổ: 7g, dây đau xương: 7g, lá lốt: 15g, đại hồi: 5g, quế chi: 7g, thiên niên kiện: 7g, phụ tử: 2g, ngải cứu:10g.
Không dùng thuốc: các động tác xoa bóp bấm huyệt, tập luyện tác động vào bàn chân.
BS.CKII. Huỳnh Tấn Vũ
Theo suckhoedoisong.vn