Cập nhật: 28/03/2018 10:58:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Bàn tay khéo léo và óc thẩm mỹ của các nghệ nhân thủ công biến đất mẹ hiền hòa thành hầu hết những vật dụng trong nhà, giải quyết nhu cầu thiết yếu trong nền kinh tế tự cung tự cấp.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chu Ru ở Việt Nam có dân số 19.314 người, cư trú tại 27 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chu Ru cư trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng (18.631 người, chiếm 96,5% tổng số người Chu Ru tại Việt Nam), Ninh Thuận (521 người), thành phố Hồ Chí Minh (58 người).

Bon Krăng Gọ, xã Próh, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng - một vùng đất tụ cư của bộ tộc Chu Ru, nơi đây còn lưu giữ nghề thủ công truyền thống gắn bó máu thịt hàng ngàn năm. “Krăng” là tên ông chủ khai sinh vùng đất, còn “Gọ” trong tiếng bản địa là chỉ nghề làm nồi đất. Khi những buôn làng khác ở Tây Nguyên từng bao đời du canh du cư thì người Churu buôn Krănggọ chỉ tụ cư bên suối Đạyòng dưới chân ngọn núi Pnum T`rom Ủ.

 

Sản phẩm gốm Chu Ru. Ảnh: Internet.

Chẳng ai biết cụ thể nghề gốm ở bon Krăng Gọ có tự bao giờ và ai là người đầu tiên khai sinh nghề gốm ở làng này. Kể cả các già làng khi được hỏi cũng chỉ nói: lớn lên đã thấy đôi tay trần của bà, của mẹ nhào nặn nên những chiếc Gọrồng, Gọdăm, Abu, Gọglah, Bơlo, Karơ, Karơyơng, Bơnhăũn Gọgrẹt… và nhiều vật dụng khác. Rồi cứ thế, nghề gốm được truyền cho đời con, đời cháu một cách tự nhiên. Số già làng khác, lại bảo: Thời rất xa xưa, người Chu Ru vốn là một nhóm con cháu thân thuộc của người Chăm, đã từng sinh sống ở vùng duyên hải Trung Bộ nước ta. Nhưng khi các vua chúa Chăm gây chiến với người Khơmer và người Việt, để phục vụ cho các cuộc chinh chiến ấy, tầng lớp quý tộc Chăm đã tiến hành bóc lột những người nông dân lao động đồng tộc của mình hết sức thậm tệ. Lại thêm nạn bắt phu, bắt lính triền miên làm cho đời sống của người nông dân lao động Chăm hết sức khổ cực, điêu đứng. Vì muốn thoát khỏi ách áp bức bóc lột nặng nề đó, một số người buộc lòng phải bỏ quê hương bản xứ, đi tìm vùng đất mới. Và chính những người di dân đầu tiên này đã sinh ra bộ tộc Chu Ru ngày nay. “Chu Ru” có nghĩa là chiếm đất - Là do người Mạ, người K’Ho, những cư dân bản địa gốc Nam Tây Nguyên dùng để chỉ một bộ tộc người Chăm ly hương từ vùng duyên hải Trung Bộ lên miền Thượng. Những người ly hương này đã mang theo nghề làm ruộng và nghề làm đồ gốm của người Chăm.

Ngày xưa, vào mùa khô, từ tháng 12 năm trước đến hết tháng 3 năm sau, cũng là thời điểm nông nhàn, tất cả các gia đình trong Krăng Gọ đều nổi lửa đốt gốm. Đàn ông thì tất bật đi gùi đất, kiếm củi, thắp lò; còn phụ nữ thì gò lưng nhào đất nặn gốm để đổi chiêng, ché, thổ cẩm với người Mạ, người K’Ho. Hồi đó, vì gốm Chu Ru nổi tiếng khắp vùng nên nhiều thương đoàn người Lào, người Campuchia cũng dùng voi chở lúa, ngô, đồ sắt, vòng cườm… vượt núi, băng rừng sang Krăng Gọ đổi gốm về dùng. Krăng Gọ trở thành làng nghề duy nhất cung cấp sản phẩm gốm cho toàn bộ cư dân khu vực Nam Tây Nguyên - Lâm Đồng. Cách thức trao đổi, mua bán cũng rất đơn giản, chỉ mang tính ước lượng tương đối, chứ không nhất thiết phải cân nhắc chi li, nếu là lúa gạo, cứ đong đầy sản phẩm gốm, rồi bên lấy gạo, bên lấy gốm… Trong quy trình làm sản phẩm gốm, phụ nữ chuyên trách khâu chọn đất tốt ở Bơnun K’Lơr (núi đất), đàn ông thì gùi đất về bon. Khắp làng trên bon dưới rộn rã tiếng sàng sảy, tiếng đãi đất, phơi đất, tiếng nhào đất và nặn gốm.

 

Ảnh: Internet.

Trước khi đi lấy đất nguyên liệu, bao giờ nghệ nhân Chu Ru cũng phải chuẩn bị lễ vật, gồm: một ché rượu cần, một con gà hoặc lợn, một chiếc khăn thổ cẩm (Su Xreng) để xin phép chủ làng, thần đất. Nếu một gia đình không đủ tiền để sắm những lễ vật ấy thì nhiều hộ gia đình góp chung vào với nhau. Miễn có lễ vật là được. Và việc lấy đất chỉ được thực hiện khi cảm thấy trong người sạch sẽ, tâm hồn thảnh thơi. Bởi theo quan niệm của người Chu Ru, nếu không có nghi lễ này, các sản phẩm gốm làm ra sẽ xấu hoặc bị nứt vỡ nhiều do thần linh quở trách.

Kỹ thuật chế tác đồ gốm của đồng bào Chu Ru ở bon Krăng Gọ khá đơn giản, họ không tạo hình sản phẩm bởi bàn xoay mà dựa hoàn toàn vào đôi tay. Ngay cả dụng cụ chế tác cũng hết sức giản đơn: Một chiếc vòng bằng tre hoặc thiếc, gọi là Knu; một miếng Tanạp (gỗ nhỏ); một quả Playcanh (trám rừng); một miếng Suté (vải).

Đất sét sau khi lấy về được phơi khô, giã nhỏ bằng chày dùng rổ tre sàng kỹ nhằm loại bỏ tạp chất, chỉ giữ lại phần bột đất mịn. Kế đến, mang bột đất này nhào trộn với nước thật nhuyễn, đến mức dẻo mịn, ủ thêm vài ngày cho đất chín, rồi mới vê thành từng khối dài để nặn gốm. Tiếp theo, nghệ nhân (thường là nữ) đặt khối đất vừa nhào kỹ lên bàn gỗ cố định hình con chạch lượn tròn và tạo dáng hoàn toàn bằng tay. Tay trái đỡ bên trong, tay phải cầm Tanạp đập đập bên ngoài sao cho thật cân xứng. Dùng Knu để làm nhẵn sản phẩm cả bên trong lẫn mặt ngoài. Cuối cùng là đánh bóng sản phẩm gốm bằng Suté và Playcanh. Mô típ hoa văn thường là các đường vạch chạy song song, được nghệ nhân dùng đầu thanh tre ấn liên tiếp vào thân gốm tạo nên những nét chìm sâu... Tạo hình xong, nghệ nhân đem cốt gốm phơi cho thật khô, chỉnh sửa lại lần cuối, sắp xếp các sản phẩm giữa một khoảng đất trống ngoài trời, chất củi, rơm xung quanh rồi nổi lửa lên đốt. Đốt từ chập tối đến quá nửa đêm một chút thì mẻ gốm hoàn tất.

 

Ảnh: Internet.

Làng gốm Chu Ru hôm nay không còn mở mang phát triển nữa và con em Chu Ru kiếm sống bằng những việc khác cũng là phù hợp với thực trạng lịch sử. Nhưng chính vì thế mà đồ gốm Chu Ru càng trở nên quý hiếm như một sản phẩm văn hóa, ghi nhận thời kỳ hoàng kim của làng gốm Chu Ru và sống mãi trong lịch sử ngành gốm Việt Nam. Thiết nghĩ, nếu có chính sách trợ giúp thỏa đáng và sự nỗ lực vươn lên thì chẳng những cuộc sống của người dân nơi đây sẽ vượt qua được đói nghèo, ngày ngày, Krăng-gọ lại rộn rã âm thanh quen thuộc của tiếng phơi đất, sàng đất, ủ đất, nặn gốm, chẻ củi. Ðêm đêm, buôn làng sẽ lại sáng những bếp lửa hồng chờ gốm ra lò. Người khắp mọi miền lại tìm đến với những sản phẩm độc đáo và thán phục trước sự dày công, điêu luyện, tài hoa của bàn tay những người thợ gốm Chu Ru.

ST

Tệp đính kèm