Cập nhật: 18/06/2018 15:21:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Dù có đầy đủ tiềm năng và những năm qua luôn được xem là một trong những nước xuất khẩu (XK) nông sản lớn nhưng Việt Nam vẫn chưa thể trở thành cường quốc nông nghiệp. Thực tế, nông sản Việt Nam vẫn… vắng bóng trên bản đồ thế giới, bởi nền sản xuất còn nhỏ lẻ, chất lượng bấp bênh, giá thành cao, thiếu thương hiệu...

Trái cây tươi Việt Nam vẫn kém sức cạnh tranh trên các thị trường xuất khẩu. Ảnh: NAM HẢI

Theo Cục Xuất nhập khẩu (XNK), Bộ Công thương, các loại rau quả XK chính của Việt Nam chủ yếu vẫn là: thanh long, nhãn, xoài, dưa hấu... Hiện nay, các thị trường XK rau quả lớn của Việt Nam gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Thái-lan, Liên hiệp châu Âu (EU)... Riêng EU, theo Cục XNK, nhu cầu tiêu thụ rau, quả các loại của thị trường này rất lớn, khoảng 115 - 130 triệu tấn/năm, trái cây khoảng 70-80 triệu tấn/năm và có xu hướng ngày càng tăng. Giai đoạn 2011-2017, XK rau quả của Việt Nam vào EU mặc dù đã liên tục tăng với tốc độ bình quân đạt 10%/năm, nhưng mới chỉ chiếm khoảng 0,4% tại thị trường này. Tương tự, tại Mỹ, đã có sáu loại trái cây tươi Việt Nam XK được vào thị trường này, song số lượng không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 3% thị phần. Lý do trái cây tươi Việt Nam chưa nhiều tại thị trường EU là do mặt hàng này kém cạnh tranh so các đối thủ có vị trí địa lý gần hơn và các đối thủ trong khu vực Đông - Nam Á về giá, chất lượng, thời gian giao hàng.

Còn theo những số liệu mới thống kê của Tổng cục Hải quan, XK rau quả của Việt Nam tháng 5-2018 ước đạt 303,1 triệu USD, tăng 10% so cùng kỳ năm 2017. XK rau quả có nhiều tháng vượt cả dầu thô về kim ngạch. Đây cũng là mức tăng trưởng kỷ lục khi ngành rau quả liên tục duy trì được mức tăng trưởng rất cao trong bốn năm liên tiếp trở lại đây. Trong nhóm hàng nông nghiệp, kim ngạch XK rau quả chỉ đứng sau thủy sản và vượt qua cả mặt hàng cà-phê.

Thực tế, tiềm năng phát triển cho trái cây Việt Nam cũng còn rất lớn vì mới chiếm 1% thị phần thị trường trái cây thế giới. Việt Nam vẫn có thể nâng cao con số này trong tương lai, nếu khắc phục được những vướng mắc tồn đọng và giải quyết được bài toán về giá thành. Là một doanh nghiệp (DN) trong lĩnh vực XK trái cây, Tổng giám đốc Vina T&T Group Nguyễn Đình Tùng cho biết, việc phụ thuộc chiếu xạ từ DN “độc quyền” đã làm gia tăng thời gian và chi phí vận chuyển trái cây, đặc biệt với những lô hàng đòi hỏi phải bảo quản, vận chuyển bằng xe giữ lạnh. Bên cạnh đó, giá cước vận chuyển hàng không cũng là gánh nặng cho các DNXK rau quả. Theo tính toán, chi phí chiếu xạ, đóng gói, vận chuyển máy bay sang thị trường NK chiếm hơn 50% giá thành rau quả Việt Nam. Đây cũng là nguyên nhân khiến rau quả Việt Nam, dù chất lượng, nhưng lại chưa giành được lợi thế khi XK ra nước ngoài.

Theo Bộ Công thương, ngành rau quả vẫn đang phải đối mặt một số vấn đề như: sản xuất phân tán, tỷ lệ hao hụt lớn, giá thành sản phẩm cao, công nghệ chế biến, bảo quản còn hạn chế nên chất lượng không đồng đều, khó kiểm soát, dễ bị cảnh báo. Ngoài ra, gặp cạnh tranh cao từ: Thái-lan, Indonesia, Myanmar... thậm chí ngay tại thị trường trong nước.

Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam Đinh Văn Hương cho rằng, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa DNXK và người sản xuất, để bảo đảm nguyên liệu đạt chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Đặc biệt, nên quy hoạch các vùng sản xuất VietGAP và áp dụng thao tác bọc trái, quản lý vùng sản xuất theo mã số... Ngoài ra, cần nghiên cứu chính sách đầu tư công nghệ xử lý kiểm dịch thực vật, công nghệ bảo quản, chế biến sâu, đáp ứng yêu cầu của các thị trường NK. Đồng thời, nên tính tới chính sách hỗ trợ và phát triển DN sản xuất, XK đủ năng lực cạnh tranh.

Còn theo chuyên gia kinh tế Vũ Vinh Phú, nếu muốn làm chủ được trong XK nông sản, ngành nông sản Việt Nam phải có lực mạnh, vốn lớn, có số lượng sản phẩm nhiều, chủ động được về thời gian, kho bãi dự trữ... Tức là ngoài việc bảo đảm về kỹ thuật sản xuất thì quản lý nhà nước cũng phải có chiến lược phù hợp, sản xuất phải kết hợp chế biến, thu hoạch phải có kho bãi bảo quản, dự trữ để giữ được lâu hơn. Có như vậy chúng ta mới chủ động, tự tin trong đàm phán được. Bên cạnh đó, Việt Nam phải lựa chọn, xây dựng phát triển sản phẩm đặc trưng nhằm hướng tới phục vụ từng nhóm khách hàng cụ thể.

Bộ Công thương cho rằng, trước mắt, các DN Việt Nam cần tăng cường quảng bá và tận dụng tốt hơn nữa hình thức giao dịch thương mại điện tử để thúc đẩy tiêu thụ. Bên cạnh đó, cũng cần tận dụng thị trường EU và Mỹ để gia tăng XK. Việt Nam được đánh giá cao về khả năng cung ứng nhưng chất lượng sản phẩm vẫn là một thách thức, chủ yếu vẫn xuất thô không có thương hiệu thương mại. Đơn cử với ngành chè, Việt Nam là một trong năm nước XK chè lớn nhất thế giới nhưng lợi nhuận thu về thấp và ít ai biết tới chè Việt Nam. Những năm gần đây, gạo và tiêu đen phải cạnh tranh với các nhà XK Campuchia. Không xây dựng được thương hiệu, tạo sự khác biệt về sản phẩm sẽ mất dần lợi thế thương mại, XK.

Về dài hạn, Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Lê Quốc Doanh cho biết, Bộ NN&PTNT sẽ tiếp tục chỉ đạo tổ chức lại sản xuất trên cơ sở rà soát quy hoạch, đánh giá tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, vùng, miền, tiến tới xây dựng cơ cấu sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó, Bộ cũng thúc đẩy phát triển các chuỗi giá trị nông sản nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe về hàng rào kỹ thuật của các thị trường NK. 

Theo QUỐC BÌNH/nhandan.com.vn

Tệp đính kèm