Theo lộ trình cam kết tại các hiệp định thương mại tự do (FTA), thuế nhập khẩu (NK) của các đối tác sẽ tiếp tục được xóa bỏ hoặc cắt giảm, tạo thêm lợi thế cạnh tranh cho nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, thương mại toàn cầu năm 2018 vẫn tiềm ẩn biến động khó lường khi quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa các nền kinh tế lớn đang trở nên căng thẳng. Chủ nghĩa bảo hộ xuất hiện trở lại và thể hiện rõ ràng hơn trong những tháng đầu năm 2018.
Việt Nam cần có một chiến lược xây dựng thương hiệu gắn liền với chất lượng. Ảnh: LAM ANH
Theo Bộ Công thương, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu (XK) nông - lâm - thủy sản bình quân giai đoạn 2011- 2017 đạt 8,6%/năm. Kim ngạch XK năm 2017 đạt 33,4 tỷ USD, tăng gấp 68 lần năm 1986, gấp tám lần năm 2000 và gần gấp đôi năm 2010. Đặc biệt, hiện nay, các sản phẩm nông nghiệp đã XK sang gần 200 thị trường (TT), trong đó có nhiều TT phát triển như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia…
Về TT, Trưởng phòng Xuất nhập khẩu (XNK) Nông - lâm - thủy sản, Cục XNK (Bộ Công thương) Phạm Tuấn Long đánh giá, sẽ còn nhiều cơ hội cho Việt Nam. Theo lộ trình cam kết tại các FTA, thuế NK của các đối tác sẽ tiếp tục được xóa bỏ hoặc cắt giảm, tạo thêm lợi thế cạnh tranh cho nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, thương mại toàn cầu năm 2018 vẫn tiềm ẩn biến động khó lường khi quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa các nền kinh tế lớn đang trở nên căng thẳng. Chủ nghĩa bảo hộ xuất hiện trở lại và thể hiện rõ ràng hơn trong những tháng đầu năm 2018. Đặc biệt, nhận thức của người dân cũng như chính phủ các nước về bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng (NTD) và bảo vệ môi trường ngày càng cao, dẫn đến việc áp dụng các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm (ATTP) và bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe, như Ủy ban châu Âu (EC) siết chặt mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đối với nông sản NK, nhiều nước ban hành quy định về truy xuất nguồn gốc xuất xứ (TXNGXX). Với Mỹ, TT lớn nhất thế giới này đặt ra yêu cầu về phân tích nguy cơ dịch hại, thực hiện kiểm tra, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói, cơ sở xử lý kiểm dịch thực vật và yêu cầu xử lý kiểm dịch thực vật (chiếu xạ) đối với trái cây tươi Việt Nam. Mỹ còn cử chuyên gia sang giám sát xử lý từng lô hàng XK, nhất là giám sát quá trình chiếu xạ. TT Trung Quốc lâu nay vốn được xem là “dễ tính”, gần đây cũng đưa ra biện pháp quản lý giám sát ghi nhãn thực phẩm NK đóng gói sẵn…
Những yêu cầu khắt khe nêu trên đang đặt ra thách thức không nhỏ đối với nông sản Việt Nam. Theo ông Phạm Tuấn Long, nhiều mặt hàng nông sản hiện còn sản xuất manh mún, tự phát dẫn đến có lúc không kiểm soát được nguồn cung dành cho XK, chất lượng chưa đồng đều, rất khó kiểm soát vấn đề an toàn và khó áp dụng các chuẩn mực của thế giới về TXNGXX.
Vấn đề ATTP tuy được cải thiện so trước đây nhưng chưa thật sự bền vững. Đâu đó vẫn xuất hiện tình trạng sản phẩm XK bị trả về do không đạt chỉ tiêu ATTP, ảnh hưởng hình ảnh, thương hiệu hàng Việt Nam. Không chỉ TTXK, mà đối với TT trong nước, những tiêu chuẩn, quy chuẩn với hàng nông sản cũng đang được đặt ra.
Tại hội thảo “Tiếp cận TT trong nước và XK đối với nông sản Việt Nam” vừa qua, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ (NBL) Việt Nam Đinh Thị Mỹ Loan chia sẻ, hiện nay đang xảy ra tình trạng người Việt Nam cứ đi tìm sản phẩm an toàn (SPAT), sản phẩm sạch. Ngược lại, chúng ta có những nơi có SPAT nhưng không đến được tay NTD. Điều này cho thấy giữa sản xuất và tiêu thụ còn khoảng cách khá xa. TT nông sản còn gặp phải trường hợp “được mùa, mất giá”, thường xuyên phải tiến hành “giải cứu”. Mà phải “giải cứu” có nghĩa là chúng ta đã thất bại do nhiều mặt hàng nông sản chưa thể vào được siêu thị.
Thống kê của Hiệp hội các NBL Việt Nam cho thấy, hiện nay, 85% nông, thủy sản được bán lẻ thông qua kênh truyền thống; chỉ 15% sản phẩm bán qua kênh hiện đại. Đây là con số thấp hơn so tỷ lệ hàng hóa phi thực phẩm. Một trong những nguyên nhân là do sản phẩm chưa đạt các quy định về ATTP mà siêu thị đặt ra. Chưa kể, hiện có quá nhiều cơ quan quản lý chung, quá nhiều quy chuẩn nên việc TXNGXX nông sản gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, kết nối giữa sản xuất và tiêu thụ vẫn lỏng lẻo.
Theo bà Đinh Thị Mỹ Loan, các NBL đều có những yêu cầu riêng, những tiêu chí rõ ràng về chất lượng hàng hóa nói chung và hàng nông sản nói riêng. Tuy nhiên, người nông dân lại không có quy trình sản xuất an toàn, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc tăng trưởng. Phần đông chưa nắm được công nghệ sản xuất an toàn, thiếu liên kết thông tin với NBL và NTD. Việt Nam cần có một chiến lược xây dựng thương hiệu gắn liền với chất lượng. Trong đó, tập trung cải thiện về đóng gói, mẫu mã, bao bì. Đồng thời, cần có một quy trình sản xuất chuẩn có thể truy xuất thông tin. Hiện nay, cả nước có hơn 3.300 DN nông nghiệp, 33.000 hộ trang trại, hàng nghìn hợp tác xã lớn, hàng triệu hộ sản xuất cá thể. Chúng ta có một tiềm năng rất lớn nếu biết liên kết, tạo dựng vùng sản xuất.
Theo ông Phạm Tuấn Long, làm thế nào để nông sản phát triển theo hướng an toàn, minh bạch. Câu trả lời là áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn vào sản xuất, điều này sẽ giải quyết được đầu ra bền vững. Đồng thời, nông sản có chất lượng sẽ nâng cao được niềm tin của NTD với hàng nông sản Việt Nam.
Theo QUỐC BÌNH/nhandan.com.vn