Cập nhật: 05/07/2022 08:05:00
Xem cỡ chữ

Giới chức Mỹ nói rằng, việc tăng quân ở Đông Âu không phải là hành động khiêu khích Moscow, mà là phản ứng phù hợp đối với chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine.

Tổng thống Mỹ Joe Biden đang tăng cường sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Đông Âu như một phản ứng trước cuộc xung đột Nga-Ukraine hiện nay. Tại hội nghị thượng đỉnh NATO ngày 29/6 vừa qua, ông Biden cho biết, Mỹ có kế hoạch tái bố trí lực lượng từ Đức đến Ba Lan và Romania, điều thêm tàu khu trục để tăng cường sự hiện diện hải quân của NATO ở sườn phía Nam của liên minh trong những tháng tới.

Mỹ sẽ thành lập trụ sở thường trực của Quân đoàn 5 tại Ba Lan, đóng vai trò là sở chỉ huy tiền phương và sở chỉ huy các đơn vị đồn trú. Sẽ có thêm một lữ đoàn đóng tại Romania.

Ngoài ra, Mỹ dự kiến triển khai thêm 2 phi đội máy bay chiến đấu F-35 tới Anh và bổ sung 2 khu trục hạm tại căn cứ hải quân Rota ở Tây Ban Nha.

thong diep my gui toi nga khi tang quan toi Dong Au hinh anh 1

Mỹ quyết định tăng cường sự hiện diện quân sự ở Đông Âu nhằm phản ứng trước chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine. Ảnh: Getty/AFP

Bảo vệ từng tấc lãnh thổ NATO

Chi tiết quan trọng trong tuyên bố của ông Biden là cam kết bảo vệ “từng tấc lãnh thổ” NATO.

Ông Max Bergmann, cựu quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ, hiện là giám đốc Chương trình châu Âu tại Trung tâm Chiến lược và nghiên cứu quốc tế (CSIS) đánh giá kế hoạch chuyển lực lượng về phía Đông là quyết định đáng chú ý.

“Chúng tôi sẽ bảo vệ đường ranh giới. Chúng tôi sẽ không nhượng bộ bất cứ điều gì”, ông Bergmann nói.

Hiện Mỹ có hơn 100.000 quân ở châu Âu. Tuy nhiên, con số này ít hơn nhiều so với thời kỳ đầu của Chiến tranh Lạnh vào cuối những năm 1950, khi đó Mỹ có khoảng 450.000 quân ở châu Âu. Trong phần lớn thời kỳ Chiến tranh Lạnh, quân số [của Mỹ] được duy trì ở mức khoảng 330.000 người, trong khi Liên Xô có khoảng 500.000 quân ở Đông Đức.

Cũng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, khối Hiệp ước Warsaw (hiệp ước phòng thủ giữa Liên Xô và Albania, Bulgaria, Tiệp Khắc, Đông Đức, Hungary, Ba Lan và Romania) và NATO đã duy trì lực lượng sẵn sàng chiến đấu ở mức cao. Khi đó, phía NATO duy trì 900.000 quân và phía Hiệp ước Warsaw là 1,2 triệu đề phòng khả năng chiến tranh quy mô lớn có thể nổ ra.

Sau khi khối Hiệp ước Warsaw và Liên Xô tan rã vào năm 1991, đồng thời Moscow rút toàn bộ lực lượng khỏi Đông Âu, Mỹ cũng đã giảm đáng kể sự hiện diện quân sự ở châu Âu.

Việc bảo vệ châu Âu trở thành một mối quan tâm ít cấp bách hơn sau khi đạt được thỏa thuận sáng lập quan hệ NATO-Nga năm 1997. Lực lượng Mỹ ở châu Âu sau đó trở thành một phần của mô hình triển khai toàn cầu để hỗ trợ các hoạt động can thiệp ở Afghanistan và Iraq, vì “cuộc chiến chống khủng bố” lúc này đã trở thành ưu tiên chính trong chính sách an ninh toàn cầu của Mỹ. Đến năm 2018, quân số lực lượng Mỹ ở châu Âu giảm xuống còn tổng cộng 65.000 người.

Tuy nhiên, vào tháng 6/2021, các nhà lãnh đạo NATO đã xác định 3 mối đe dọa đối với an ninh châu Âu – gồm Nga, Trung Quốc và chủ nghĩa khủng bố - đồng thời quyết định rằng cần có những thay đổi chiến lược, đặc biệt là kể từ sau khi Nga sáp nhập bán đảo Crimea và xung đột bùng phát ở miền Đông Ukraine.

Gần đây, NATO tuyên bố rằng chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine “đã làm tan vỡ hòa bình ở châu Âu. Nga đã vi phạm các chuẩn mực và nguyên tắc góp phần vào trật tự an ninh ổn định và có thể dự đoán được ở châu Âu, đồng thời gây ra mối đe dọa trực tiếp và đáng kể nhất đối với an ninh của các nước Đồng minh cũng như hòa bình và ổn định ở khu vực Châu Âu-Đại Tây Dương”.

Tổng Thư ký NATO Jens Stoltenberg nói rằng, xung đột Nga-Ukraine khiến liên minh quân sự này đối mặt với thách thức lớn nhất kể từ thời Thế chiến thứ 2. Để phòng thủ hiệu quả trước một cuộc tấn công tiềm tàng của Nga, NATO cần phải có một số lượng đáng kể quân đội và thiết bị hạng nặng bao gồm pháo và xe tăng ở gần khu vực có thể trở thành chiến tuyến.

Đối phó môi trường an ninh đã thay đổi, không nhằm khiêu khích Nga?

Theo ông Stoltenberg, kế hoạch tăng cường lực lượng tới Đông Âu “thể hiện vai trò lãnh đạo quyết đoán và sức mạnh của Mỹ trong mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương”.

NATO cũng sẽ tăng cường đáng kể lực lượng phản ứng nhanh - lực lượng đa quốc gia được thiết lập để phản ứng nhanh trước bất kỳ thách thức an ninh nào. Theo đó, lực lượng này sẽ được tăng gấp gần 7 lần, từ 40.000 quân hiện tại lên hơn 300.000 quân.

Kế hoạch bao gồm cả việc tăng cường các nhóm chiến đấu ở Bulgaria, Hungary, Romania và Slovakia. Điều này có nghĩa là NATO đang chuẩn bị để đánh bại bất kỳ cuộc tấn công tiềm tàng nào của Nga ngay từ đầu.

Nói về kế hoạch của Mỹ, Người phát ngôn Lầu Năm Góc John Kirby nói rằng: “Không có lý do gì để Tổng thống Vladimir Putin cần phải xem bất cứ sự thay đổi lực lượng nào ở sườn phía Đông của NATO là một hành động khiêu khích. NATO đang và sẽ luôn là một liên minh phòng thủ. Lý do chúng tôi phải làm như vậy là vì Nga đã gây bất ổn trên lục địa”.

Bà Celeste Wallander, trợ lý bộ trưởng quốc phòng Mỹ phụ trách các vấn đề quốc tế nói rằng, việc Mỹ có sự hiện diện lâu dài ở Ba Lan sẽ là chìa khóa để giúp NATO đối phó với môi trường an ninh đang thay đổi ở châu Âu do xung đột Nga-Ukraine, bởi Washington đóng góp sức mạnh quân sự đáng kể cho NATO.

Mặt khác, giới chức Mỹ nhấn mạnh, việc đồn trú lâu dài chỉ áp dụng với các sở chỉ huy chứ không áp dụng với binh sỹ chiến đấu. Điều này phù hợp với thỏa thuận năm 1997 giữa NATO và Nga, trong đó liên minh đồng ý không đồn trú lực lượng chiến đấu ở Đông Âu để tạo các mối quan hệ mang tính xây dựng hơn trong môi trường hậu Chiến tranh Lạnh. Các đơn vị chiến đấu mà chính quyền Mỹ dự kiến điều tới Romania và khu vực Baltic là luân phiên chứ không phải thường trực, do đó vẫn tuân thủ thỏa thuận năm 1997./.