Phù là hiện tượng tăng thể tích dịch ngoài tế bào ở khu vực gian bào, có thể phát hiện được trên lâm sàng. Phù thường xuất hiện ở mi mắt, ở mặt trước, rồi mới xuống phù toàn thân, chân tay, lưng, bụng, bộ phận sinh dục. Vậy, phù là dấu hiệu của bệnh gì?
Phù là hiện tượng gia tăng dịch tại vùng mô kẽ và mô sưng nề lên, có thể khu trú hoặc toàn thân. Phù có thể khu trú tại các màng bao gồm màng bụng, tràn dịch màng phổi. Việc tiếp cận phù chỉ có hiệu quả khi hiểu rõ cơ chế bệnh sinh của phù. Một khi chuẩn đoán được xác định, việc điều trị căn nguyên sẽ dễ dàng hơn.
Các nguyên nhân gây phù có thể gặp trong các bệnh lý thận như: hội chứng viêm cầu thận mạn, hội chứng thận hư, hội chứng suy thận cấp, hội chứng suy thận mạn, bệnh thận có kèm theo suy tim hay suy dinh dưỡng…
Biểu hiện phù toàn thân
Bệnh nhân có biểu hiện phù ở mặt, thân và chân, tay. Có khi tràn dịch màng phổi, màng bụng, màng tinh hoàn, tràn dịch màng ngoài tim ít gặp hơn. Nguyên nhân thông thường nhất là phù thận. Ngoài ra có thể phù do suy dinh dưỡng và đôi khi là phù niêm.
Phù do thận hư nhiễm mỡ
Hay gặp hội chứng thận hư nhiễm mỡ ở trẻ em từ 2 đến 8 tuổi, thường xuất hiện sau 1 đợt nhiễm khuẩn đường hô hấp.
Biểu hiện phù rất to, phát triển rất nhanh, phù trắng mềm, ấn lõm, đầu tiên xuất hiện ở mí mắt, ở mặt rối ở các nơi khác. Không liên quan với thời gian trong ngày hoặc tư thế người bệnh. Tuy nhiên nếu phù to, bệnh nhân nằm lâu thì phù hay tập trung nhiều nhất ở vùng lưng, mặt sau đùi và nói chung là ở các chỗ thấp. Do cơ chế là giảm protein máu nên chế độ ăn nhạt không làm giảm phù.
Phù do viêm cầu thận cấp hoặc mạn
Hay gặp nhất là viêm cầu thận cấp sau nhiễm liên cầu. Xét nghiệm phế họng hoặc mủ tổn thương da có thể phát hiện liên cầu bệnh huyết tán nhóm A.
Phù có thể nhiều hay ít, phù trắng hoặc mềm. Xuất hiện đầu tiên ở mi mắt, ở mặt rồi mới đến nơi khác. Phù không liên quan với thời gian trong ngày hoặc tư thế người bệnh. Chế độ ăn nhạt làm giảm phù rõ rệt. Bệnh thường kém theo tăng huyết áp. Nước tiểu ít và vẩn đục như nước canh thịt hầm hoặc vẫn trong. Thường xuất hiện sau 1 nhiễm khuẩn ở nơi khác, phổ biến là sau viêm họng, viêm Amidan, mụn nhọt ngoài da.

Phù do suy dinh dưỡng
Chủ yếu là hai chi dưới nhưng cũng có khi phù mặt, thân và chi trên. Phù không liên quan đến thời gian trong ngày hoặc tư thế người bệnh, mềm, ấn lõm.
Không có protein trong nước tiểu. Các bệnh hay gây suy dinh dưỡng là bệnh đường ruột mạn tính, các nhiễm khuẩn mạn tính( lao), các bệnh ác tính, nhất là ung thư đường tiêu hóa.
Phù do suy giáp trạng
Có hai loại: loại tiên phát có thể xảy ra sau khi cắt bỏ tuyến giáp, sau khi điều trị Basedow bằng iod phóng xạ hay chạy tia vùng cổ. Loại thứ phát do suy tuyến yên.
Ở thời kì toàn phát, da vàng và niêm mạc bị phù nề, nhưng ấn không lõm, mặt và tay to ra, mi mắt nề, da khô. Phù ở niêm mạc làm bênh nhân có giọng khàn, khó nuốt. Da màu vàng rơm. Ngoài ra người bệnh có biểu hiện chậm chạp, táo bón, sợ lạnh, tim to, mạch chậm, thiếu máu.
Phù ở các bộ phận khác:
Phù ở ngực
Phù đi từ vai, cổ, mặt trước của lồng ngực, là dấu hiệu của chèn ép tĩnh mạch chủ trên. Có thể khi có u ở trung thất thường hay khó thở, có khi khò khè, ho từng cơn, kiểu hen phế quản. Cũng có khi đau dây thần kinh liên sườn, dây thần kinh vùng cổ và tay, cơ hoành. Một số bệnh nhân có triệu chứng khó nuốt, khó nói do liệt dây thần kinh quặt ngược, nhất là bên trái.
Phù chân hay gặp do phù thai nghén
Vào những tháng cuối của thời kì thai nghén, xuất hiện ở hai chân, nhưng thường không đều, bên phù nhiều, bên phù ít. Thường do chèn ép, ảnh hưởng đến tuần hoàn trở về, cũng có khi liên quan đến một bệnh thận tiềm tàng, vượt lên thời kì thai nghén, thử nước tiểu có albumin. Nếu do chèn ép cản trở tuần hoàn thì sau đẻ, phù sẽ hết.
Nếu phù 1 chân có thể do viêm tắc tĩnh mạch. Phù mềm, ấn không lõm, trắng và rất đau. Đau tự phát làm người bệnh không dám cử động chân, đau càng tăng lên khi sờ nắn chi, nhất là đoạn chi gần chỗ viêm tắc. Nằm nghỉ và nhất là gác chân lên cao sẽ giảm bớt phù. Thường kèm theo sốt.
Viêm mạch bạch huyết lúc đầu cũng phù giống viêm tắc tĩnh mạch. Nhưng có nổi rõ đường đi của mạch bạch huyết thành những đường sưng đỏ và đau. Các hạch bạch huyết tương ứng cũng sưng đỏ đau. Về sau các tổn thương ổn định, tổ chức dưới da trở trên rất dày và cứng, đây là phù chân voi, di chứng của viêm bạch mạch.
Phù do dị ứng
Thường xuất hiện đột ngột ở xung quanh mồm, mất đi nhanh chóng. Phù Quincke còn gọi là phù thần kinh mạch có thể xảy ra ở cả hai giới, bắt đầu xuất hiện ở tuổi dậy thì, đôi khi có tính chất gia đình.
Bắt đầu bằng ngứa và sau đó tại vùng ngứa nhất là vùng mặt, quanh mồm, mặt, lưỡi xuất hiện phù. Thời gian xuất hiện ngắn thường 1-2 ngày.
Tóm lại, phù là vấn đề dễ gặp do nhiều nguyên nhân. hiện nay, các bệnh liên quan đến thận ngày càng xuất hiện nhiều, gây lo lắng cho người bệnh. Vì vậy, khi thấy có biểu hiện phù cần đến cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị.
Theo suckhoedoisong.vn
https://suckhoedoisong.vn/phu-la-dau-hieu-cua-benh-gi-169250611074401782.htm