Nhân viên y tế chăm sóc người bệnh điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội). Ảnh: THẾ ANH
Tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện tăng không chỉ gây khó khăn trong công tác điều trị mà thậm chí còn làm tăng nguy cơ gây tử vong cho người bệnh. Điều đó đặt ra cho các cơ sở khám, chữa bệnh cần có những giải pháp quyết liệt làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn, nhất là tại các khu vực có nguy cơ cao, góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng chăm sóc, điều trị người bệnh.
Đến năm 2016, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) ở nước ta đã giảm hai phần ba so với năm 1999. Tỷ lệ NKBV hiện nay vào khoảng 5,8%. Thống kê của Cục Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) cho thấy, trong 93 bệnh viện thực hiện giám sát nhiễm khuẩn năm 2016, tỷ lệ NKBV chung là 3,6%, trong đó cao nhất là tuyến tỉnh với 5,06%, tuyến trung ương 2,79%, tuyến huyện 2,11% và bệnh viện tư nhân 1,45%. Tuy nhiên, theo Phó Cục trưởng Quản lý khám, chữa bệnh Hoàng Văn Thành, thì hệ thống tổ chức kiểm soát nhiễm khuẩn đã được thiết lập ở hầu hết các bệnh viện trong cả nước (92,23% số bệnh viện có hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn; 88,66% số bệnh viện có mạng lưới kiểm soát nhiễm khuẩn; 72,27% số bệnh viện có khoa kiểm soát nhiễm khuẩn). Tuy nhiên, các bệnh viện chưa quan tâm đúng mức công tác giám sát NKBV khi chỉ có 35,29% số bệnh viện có bộ phận giám sát chuyên trách. Tỷ lệ bệnh viện thực hiện giám sát nhiễm khuẩn đối với các bệnh trọng điểm tăng so với năm 2015, nhưng vẫn còn thấp. Trong số 121 đơn vị thực hiện, giám sát nhiễm khuẩn vết mổ chỉ chiếm 25,42%; giám sát viêm phổi thở máy (14,46%); giám sát nhiễm khuẩn huyết (12,61%) và giám sát nhiễm khuẩn tiết niệu (14,29%). Đáng chú ý, chỉ có gần 41% số bệnh viện giám sát vi sinh trong môi trường tại khu vực có nhiều nguy cơ lây nhiễm.
Việc triển khai giám sát nhiễm khuẩn kém, dẫn tới khó kiểm soát được thực trạng nhiễm khuẩn tại các cơ sở y tế. Trong khi đó, nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế trở thành gánh nặng cho người dân cũng như cho các cơ sở khám, chữa bệnh, khi làm tăng tỷ lệ tử vong, tăng biến chứng, tăng ngày nằm điều trị, tăng mức sử dụng kháng sinh, tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật, tăng chi phí dùng thuốc… Một nghiên cứu gần đây ở Bệnh viện Chợ Rẫy (TP Hồ Chí Minh) cho thấy, NKBV kéo dài thời gian điều trị là 15 ngày với viện phí phát sinh ước tính khoảng 2,9 triệu đồng/người. Tỷ lệ NKBV ở nước ta hiện nay vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực và cao hơn gấp hai, ba lần so với những nước phát triển.
Các đơn vị chăm sóc tích cực là khu vực có nguy cơ NKBV cao nhất bởi đây là nơi tập trung đông người bệnh nặng, hệ thống bảo vệ cơ thể suy giảm, thời gian nằm viện kéo dài và phải chịu nhiều thủ thuật xâm nhập. Một số nghiên cứu cho thấy nhiễm khuẩn phổi gặp cao nhất với 44,7%, tiếp đến là nhiễm khuẩn vết mổ 29,3%, rồi đến nhiễm khuẩn tiết niệu và nhiễm khuẩn máu.
GS Ngô Quý Châu, Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai cho rằng, càng ở những bệnh viện đông người bệnh, nhất là người bệnh nặng phải chuyển qua nhiều đơn vị điều trị thì khả năng nhiễm khuẩn càng cao. Hầu hết NKBV là tại các đơn vị chăm sóc tích cực gây ra bởi các vi khuẩn đa kháng kháng sinh. Nhiễm khuẩn do vi khuẩn đa kháng kháng sinh khó điều trị, khó kiểm soát lây truyền và để lại hậu quả nặng nề cho người bệnh do làm tăng gấp hai lần số ngày nằm viện, chi phí điều trị và tăng tỷ lệ tử vong (từ 30 đến 40%). Đáng lo ngại, hầu hết các cơ sở khám, chữa bệnh ở Việt Nam đang phải đối mặt với tốc độ lan rộng của các vi khuẩn kháng nhiều loại kháng sinh. Trong khi, nhiều quốc gia phát triển đang còn sử dụng kháng sinh thế hệ một có hiệu quả thì Việt Nam đã sử dụng tới kháng sinh thế hệ thứ ba và thứ tư. Đặc biệt, ở nước ta đã xuất hiện một vài loại siêu vi khuẩn kháng lại tất cả các loại kháng sinh...
GS Vũ Văn Đính, chuyên gia hàng đầu về hồi sức cấp cứu và chống độc cảnh báo: Vấn đề kháng sinh và nhất là tình trạng đa kháng thuốc của vi khuẩn rất nan giải. Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ vi khuẩn kháng kháng sinh vào loại cao nhất, dẫn đến kéo dài ngày điều trị trung bình, tăng tỷ lệ tử vong của những người bệnh tại khoa cấp cứu và hồi sức.
Để hạn chế tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện, theo PGS, TS Nguyễn Việt Hùng, Trưởng khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn (Bệnh viện Bạch Mai), mọi nhân viên y tế, người bệnh, người nhà người bệnh cần tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình vô khuẩn trong chăm sóc người bệnh. Các bệnh viện phát hiện và tổ chức cách ly sớm người bệnh nhiễm khuẩn bệnh viện để phòng ngừa lan truyền các vi khuẩn đa kháng kháng sinh. Bên cạnh đó, tập trung cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng: nơi xử lý đồ bẩn, phương tiện vệ sinh, hệ thống xử lý nước sinh hoạt, nước thải; duy trì phương tiện kiểm soát nhiễm khuẩn cơ bản phục vụ công tác vệ sinh tay, vệ sinh môi trường, khử khuẩn, tiệt khuẩn dụng cụ, đồ vải. Duy trì kiểm tra, giám sát chủ động nhiễm khuẩn bệnh viện và tuân thủ thực hành kiểm soát nhiễm khuẩn để kịp thời can thiệp làm giảm NKBV. Cần phối hợp chặt chẽ các khoa, phòng để phát hiện, cách ly kịp thời vi khuẩn đa kháng kháng sinh và có liệu pháp điều trị kháng sinh phù hợp. Cải thiện cơ sở hạ tầng kiểm soát nhiễm khuẩn, tập trung vào cải thiện chất lượng nước sinh hoạt, các phương tiện cho vệ sinh tay, khử khuẩn bề mặt môi trường, cải tạo trung tâm tiệt khuẩn và khu xử lý chất thải. Những khu vực cần tập trung nguồn lực để chống NKBV là: hồi sức tích cực, cấp cứu, chống độc, nhi sơ sinh và ngoại khoa…
Tại hội nghị về công tác chống NKBV được tổ chức mới đây, nhiều đại biểu cho rằng cần sớm xây dựng và đưa vào hoạt động hệ thống giám sát nhiễm khuẩn quốc gia. Đồng thời, hỗ trợ một số đơn vị hoàn thiện mô hình bệnh viện mẫu về giám sát nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó, chính những người thầy thuốc cần thực hiện tốt biện pháp chống NKBV mà Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo, đó là rửa tay, vừa ít tốn kém về kinh tế mà vẫn hiệu quả. Theo đó, các thầy thuốc phải vệ sinh bàn tay trước và sau mỗi lần tiếp xúc với người bệnh; trước khi làm các thủ thuật vô khuẩn, sau khi tiếp xúc với dụng cụ y tế nhiễm khuẩn...
Theo MINH HOÀNG/ nhandan.com.vn