Sốt xuất huyết Dengue là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở nước ta, dễ bùng phát vào mùa mưa và có nguy cơ gây thành dịch. Khi mắc bệnh, nếu người bệnh chủ quan, lơ là cho rằng sốt virus thông thường sẽ khiến bệnh trở nặng và gây nhiều biến chứng.
1. Biến chứng thường gặp khi bị sốt xuất huyết
Đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các trường hợp tử vong là hạ tiểu cầu và cô đặc máu.
Hạ tiểu cầu
Biến chứng hạ tiểu cầu không khiến cơ thể mệt mỏi, li bì. Do đó, nhiều người khỏe mạnh chủ quan, không theo dõi cho đến khi bị xuất huyết ồ ạt.
Cô đặc máu
Biến chứng cô đặc máu có liên quan nhiều đến triệu chứng mệt, đau tức vùng gan, nôn, buồn nôn, lơ mơ, li bì, thường kéo dài 24 - 48 giờ.
Giai đoạn hạ sốt sẽ xuất hiện các biến chứng hạ tiểu cầu hoặc cô đặc máu và thiếu thể tích tuần hoàn gây tụt huyết áp, sốc…Vì vậy, người bệnh không nên chủ quan và cần đặc biệt lưu ý giai đoạn nguy hiểm này (từ ngày thứ 4 - 7), bằng cách đi khám và xét nghiệm máu hằng ngày, xác định nguy cơ hạ tiểu cầu và cô đặc máu.
Sốt xuất huyết Dengue là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở nước ta.
2. Các biến chứng nguy hiểm của sốt xuất huyết Dengue
Sốc mất máu
Bệnh xuất huyết gây ra việc tăng tính thấm mao quản, thoát huyết tương và cô đặc máu cho nên biểu hiện của việc sốc là máu sẽ bị đẩy ra ngoài. Trường hợp này sẽ chảy máu khá nhiều như chảy máu cam, chảy máu chân răng, qua vết thương hở. Việc mất máu nhiều khiến cơ thể kiệt quệ và sốt cao dài ngày, vã mồ hôi, nôn nhiều.
Tràn dịch màng phổi
Những ngày đầu, khi bệnh nhân sốt cao, ăn kém, nôn và tiêu chảy gây mất nước thì cần truyền dịch để bù lại lượng nước và điện giải đã mất, tránh hiện tượng cô đặc máu. Tuy nhiên, đến giai đoạn tiếp theo của bệnh, khi đã có tăng tính thấm thành mạch, thoát dịch ra ngoài thì cần truyền dung dịch cao phân tử để kéo dịch trở lại lòng mạch, đồng thời tăng cường đào thải dịch ra ngoài bằng các thuốc lợi tiểu. Nếu ở giai đoạn này vẫn truyền nhiều dịch và không tăng cường thải dịch ra ngoài thì bệnh nhân sẽ có nguy cơ tràn dịch đa màng (màng phổi, màng bụng, màng tim) và phù phổi cấp, rất nguy hiểm tới tính mạng người bệnh.
Huyết tương bị tràn trong cơ thể có thể khiến viêm đường hô hấp, tràn dịch màng phổi hoặc viêm phổi, phù phổi cấp. Nếu không được cấp cứu có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.
Suy đa tạng, xuất huyết não
Sốt xuất huyết có thể dẫn đến tình trạng suy tim do máu chảy liên tục. Tim không đủ sức bơm máu cộng với dịch huyết tương xuất huyến khiến màng tim bị tràn dịch gây ứ đọng.
Xuất huyết bất thường do rối loạn nguyên tố đông máu: Chảy máu cam dữ dội, rong kinh, chỗ chích bị bầm tím, xuất huyết đường tiêu hóa, xuất huyết nội tạng... Ở người lớn, khi mắc bệnh sốt xuất huyết, tỷ lệ xuất huyết não chiếm 1%, máu chảy lan nhiều chỗ trong não. Đây là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ tử vong cao ở người lớn khi mắc bệnh này.
Trong các biến chứng do sốt xuất huyết thì nặng nhất là tràn dịch màng phổi, máu đọng trong thận. Hai biến chứng này rất nguy hiểm và có thể ảnh hưởng đến tính mạng hoặc để lại những hậu quả nặng nề sau này cho người bệnh.
Đặc biệt, những bệnh nhân đã có những bệnh nền như suy thận, suy gan do rượu... thì sẽ rất nguy hiểm đến tính mạng. Đối với bệnh nhân xuất huyết nặng, biến chứng tiểu cầu giảm là tình trạng rất nguy hiểm. Khi đã bị giảm tiểu cầu, nếu bệnh nhân không được truyền kịp thời có thể dẫn đến xuất huyết não, dễ tử vong.
Thận cũng bị ảnh hưởng do phải làm việc hết công suất để bài tiết huyết tương qua nước tiểu. Việc này có thể dẫn đến tình trạng suy thận cấp.
Chảy máu cam dữ dội, rong kinh, xuất huyết đường tiêu hóa, xuất huyết nội tạng... là những biến chứng nfguy hiểm của bệnh sốt xuất huyết.
Biến chứng về mắt
Thứ nhất là xuất huyết võng mạc dẫn đến các mạch máu của võng mạc bị tổn thương, máu thấm lên thành những lớp mỏng che trước võng mạc gây mù lòa. Ở những chỗ bị che khuất đó người ta không nhìn thấy được mọi vật, thị lực của mắt bị giảm sút.
Loại thứ hai là xuất huyết trong dịch kính: Dịch kính là chất lỏng trong nhãn cầu, bình thường dịch kính trong suốt ta mới nhìn thấy được mọi vật. Khi một mạch máu trong mắt bị vỡ, máu tràn vào trong buồng dịch kính che khuất các vật ở trước mắt khiến bệnh nhân gần như mù hẳn.
Muốn phân biệt được xuất huyết võng mạc và xuất huyết trong dịch kính, bác sĩ nhãn khoa phải dùng máy soi đáy mắt. Do vậy, trước biến chứng chảy máu ở trong nhãn cầu của bệnh sốt xuất huyết, bệnh nhân nên đến khám ở khoa mắt để được điều trị, vì việc chữa xuất huyết trong nhãn cầu chỉ có kết quả nếu bệnh nhân đến bệnh viện sớm.
Hôn mê
Khi bị xuất huyết trong cơ thể, dịch huyết tương có thể ứ đọng ở màng não qua các thành mạch gây phù não và các hội chứng thần kinh dẫn đến hôn mê. Đây là dạng biến chứng nặng nhất của bệnh.
Sinh non, sảy thai
Theo các chuyên gia, sốt xuất huyết ở người mẹ mang thai có thể gây suy thai hoặc sinh non, thai chết lưu. Với người mẹ thì rất có thể bị chảy máu khó cầm, tiền sản giật, làm tổn thương đến chức năng gan, thận, chảy máu kéo dài khi chuyển dạ. Nguy hiểm hơn, nếu lượng huyết tương bị thoát lớn, ồ ạt sẽ gây bụng to, cổ trướng.
Với những người mẹ đang mang thai, xuất huyết trong cơ thể dẫn tới việc cơ thể của mẹ kiệt quệ, không còn sức khỏe để nuôi dưỡng bào thai. Do đó, với phụ nữ có thai, nếu có các triệu chứng nghi sốt xuất huyết cần nhanh chóng đến các cơ sở y tế để được khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Tụt huyết áp và đau đầu
Ở thể nặng, bệnh nhân sốt xuất huyết sẽ cảm thấy khó khăn khi đứng và đi bộ đúng cách do huyết áp giảm đột ngột. Sau đó, bệnh nhân sẽ bị nhức đầu nghiêm trọng. Đây là biến chứng nghiêm trọng nhất của sốt xuất huyết bởi nó thường gây ra xuất huyết não và tử vong.
Điều trị và theo dõi sốt xuất huyết tại gia đình phải dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.
3. Nhận biết dấu hiệu nguy hiểm của bệnh sốt xuất huyết
Chảy máu: Xuất hiện các chấm hay đốm màu đỏ trên da; chảy máu mũi, lợi; nôn ra máu; đi ngoài phân đen; kinh nguyệt ra nhiều bất thường/chảy máu âm đạo;
Người bệnh nôn liên tục; Đau bụng dữ dội; Lơ mơ, rối loạn ý thức hoặc co giật; Xanh tím, tay và chân lạnh ẩm; Khó thở… Ngoài ra, nếu bệnh nhân có tình trạng sốt cao liên tục không kiểm soát được bằng các thuốc hạ sốt thông thường, cũng nên đến bệnh viện để được xử trí càng sớm càng tốt.
Các trường hợp có tiểu cầu hạ thấp cũng cần vào viện để theo dõi, tránh nguy cơ chảy máu, xuất huyết não, xuất huyết nội tạng.
4. Làm gì để hạn chế biến chứng khi mắc sốt xuất huyết?
Khi nghi ngờ bị sốt xuất huyết, nhất là trong gia đình, tổ dân phố, làng xóm, thôn bản đã có người bị sốt xuất huyết cần được thăm khám ở cơ sở y tế đảm báo chất lượng để được điều trị kịp thời, bởi đây có thể là thể bệnh nặng nhất, gây nhiều biến chứng, thậm chí đe dọa đến tính mạng người bệnh.
Trong trường hợp được bác sĩ khám bệnh cho điều trị tại gia đình, cần được theo dõi thường xuyên về nhiệt độ cơ thể và các hiện tượng xuất huyết người bệnh (nếu có) cũng như các dấu hiệu bất thường xuất hiện, nếu cần phải cho người bệnh đến bệnh viện ngay. Điều trị và theo dõi sốt xuất huyết tại gia đình phải dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ, đặc biệt lưu ý sử dụng thuốc hạ sốt không được dùng Aspirin, chỉ dùng Paracetamol đơn chất theo chỉ định của nhân viên y tế. Cần bù dịch sớm bằng đường uống, khuyến khích người bệnh uống nhiều nước Oresol, nước trái cây, nước cháo loãng với muối. Khi bệnh nhân không uống được do nôn nhiều, có dấu hiệu mất nước, xét nghiệm Hematocrit tăng cao phải chỉ định truyền dịch.
Theo BS. Trần Dung/suckhoedoisong.vn
https://suckhoedoisong.vn/cac-bien-chung-nguy-hiem-do-sot-xuat-huyet-169220510070717262.htm