Cập nhật: 15/09/2010 17:00:15 Article Rating
Xem cỡ chữ

Những thông tin chưa bao giờ được biết đến về những đơn vị đặc nhiệm chuyên làm nhiệm vụ “bắt cóc, thủ tiêu” các chỉ huy, thủ lĩnh của Taliban và Al-Qaeda ở Afghanistan lần đầu được trang web Wikileaks tiết lộ trong loạt hồ sơ mật công bố vào tháng 7 vừa qua.

 

Sau đó, những thông tin này được các tờ báo lớn như New York Times của Mỹ, Der Spiegel của Đức và The Guardian của Anh phân tích làm rõ thêm những vấn đề, sự kiện quan trọng liên quan đến chiến lược chiến tranh và vai trò của những đơn vị này trong suốt quá trình tham gia cuộc chiến Afghanistan.

 

Theo hồ sơ của trang web Wikileaks, đã có ít nhất 2.058 người Afghanistan được liệt vào một danh sách bí mật có tên gọi là Danh sách Các mục tiêu ưu tiên của Liên quân (JPEL) và trở thành những mục tiêu "bắt cóc, thủ tiêu" của quân đội Mỹ. Trong số họ hiện còn khoảng hơn 700 người bị giam giữ trong nhà tù bí mật bên trong căn cứ quân sự của Mỹ ở Bagram.

 

CIA và những đơn vị đặc nhiệm hỗn hợp

 

Ý tưởng hình thành các đơn vị hỗn hợp với sự tham gia hợp tác giữa các binh chủng trong quân đội với Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) đã bắt đầu phôi thai từ thập niên 80 thế kỷ XX, sau thất bại thảm hại của Chiến dịch Móng vuốt đại bàng (Operation Eagle Claw) bao gồm đầy đủ các lực lượng hải, bộ và không quân tham gia giải cứu con tin trong Đại sứ quán Mỹ ở Tehran, Iran, với sự trợ giúp của CIA. Vụ đó, 8 binh sĩ đã thiệt mạng do máy bay trực thăng đâm vào nhau trong lúc vội vã thi hành nhiệm vụ.

 

Ngay sau đó, Đô đốc James L Holloway III đã đề xuất thành lập Bộ Chỉ huy đặc nhiệm liên quân (JSF) nhằm bảo đảm sự phối hợp tác chiến giữa CIA với các quân binh chủng được chặt chẽ hơn, có bài bản hơn trong tương lai.

 

Tuy nhiên, phải đến sau vụ khủng bố 11/9/2001 thì tiến trình hình thành JSF mới được tăng tốc. Khi đó, CIA đã biệt phái một toán sĩ quan bí mật đến Afghanistan để điều nghiên thực địa, chuẩn bị lên kế hoạch cho cuộc tấn công vào Afghanistan. Không lâu sau, một đơn vị Mũ nồi xanh của bộ binh cũng cử một nhóm lấy tên là Đặc nhiệm Dagger đến Afghanistan để thực thi nhiệm vụ tương tự. Hai toán biệt phái sau đó đã nhập lại thành một.

 

Sau sứ mệnh nói trên của CIA và Đặc nhiệm Dagger, Đặc nhiệm 5 là đơn vị hỗn hợp bí mật đầu tiên bao gồm CIA phối hợp với nhiều lực lượng đặc nhiệm khác nhau của quân đội Mỹ ở Afghanistan, lĩnh nhiệm vụ bắt cóc hoặc thủ tiêu những mục tiêu cao cấp như Osama bin Laden, các lãnh đạo cao cấp của mạng lưới Al-Qaeda và thủ lĩnh Mullah Mohammed Omar của Taliban.

 

Cùng thời gian đó, một đơn vị tương tự như Đặc nhiệm 5 là Đặc nhiệm 20 cũng đã được thành lập ở Iraq. Sau đó, tướng John Abizaid - Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Trung tâm đã quyết định sáp nhập 2 đơn vị này lại thành Đặc nhiệm 121.

 

Trong cuốn sách mới xuất bản nhan đề "Chiến dịch tim đen", Trung tá Anthony Shaffer đã mô tả hoạt động "bắt cóc, thủ tiêu" của Đặc nhiệm 121 vào năm 2003 - khi đó ông là một thành viên điều hành các chiến dịch của DIA (Tình báo Quốc phòng) từ bên trong căn cứ quân sự Bagram.

 

Vào một đêm tháng 10/2003, Shaffer được một trực thăng MH-47 Chinook thả xuống một ngôi làng gần Asadabad ở tỉnh Kunar để dẫn dắt một toán lính hỗn hợp (gồm biệt kích bộ binh và Sư đoàn 10 Sơn cước) đi tìm  bắt một phó tướng của trùm chiến tranh Gulbuddin Hekmatyar có quan hệ với Taliban. Cuộc truy lùng dựa theo thông tin do CIA cung cấp.

 

Tuy nhiên, nhiệm vụ không hề dễ dàng. Ban đầu, toán hỗn hợp của Shaffer có vẻ giành thắng lợi như "chẻ tre" với các cuộc tập kích vào các căn cứ của quân Taliban dọc biên giới Afghanistan - Pakistan. Thế nhưng sau đó, nhiều thay đổi từ các lãnh đạo cao cấp đã khiến cho chiến dịch mắc nhiều sai sót, quân đặc nhiệm của Shaffer chỉ còn biết ngồi nhìn Taliban "quậy tưng bừng" ở bên kia biên giới Pakistan.

 

Shaffer chua chát kể lại, 25 năm sau thất bại của Chiến dịch Móng vuốt đại bàng, sự phối hợp giữa CIA và các lực lượng đặc nhiệm khác nhau của quân đội Mỹ vẫn tiếp tục lủng củng, CIA và các lực lượng đặc nhiệm tiếp tục đấu đá nhau xoay quanh cách thức tiến hành các chiến dịch bí mật "bắt cóc, thủ tiêu" tại Afghanistan. Đó chính là lý do khiến đơn vị hỗn hợp giữa CIA và các lực lượng đặc nhiệm không thể hoàn thành nhiệm vụ.

 

Theo Wikileaks, Đặc nhiệm 373 được nhắc đến lần đầu tiên vào năm 2007. Người ta vẫn hay thắc mắc về tên gọi của nó, bởi không ai biết nó được hình thành từ đâu và do ai. Tuy nhiên, có một sự trùng hợp đáng chú ý là Bộ luật số 10 của Quốc hội Mỹ quy định những điều mà quân đội được phép hay không được phép làm.

 

Chương 373 của Bộ luật cho phép Bộ trưởng Quốc phòng trao quyền cho một "nhân viên dân sự" thực thi lệnh bắt hoặc bắt giữ không cần lệnh. Không rõ điều luật này có phải là cơ sở hình thành đơn vị đặc nhiệm hay không, nhưng rõ ràng quy định có vẻ rất phù hợp với những hoạt động thực tế của đơn vị này.

 

Đặc nhiệm 373 hoạt động chủ yếu tại 3 căn cứ quân sự ở thủ đô Kabul, tỉnh Kandahar và thành phố Khost, gần vùng bộ lạc Pakistan. Ngoài ra, một số hoạt động của Đặc nhiệm 373 cũng có thể xuất phát từ Trại Marmal - căn cứ của quân Đức trong thành phần NATO đóng tại thành phố Mazar-e-Sharif, miền Bắc Afghanistan, đồng thời được sự phối hợp hỗ trợ của đơn vị Đặc nhiệm 42.

 

Tài liệu Wikileaks còn cho biết, đơn vị được trang bị cả máy bay trực thăng chiến đấu AC-130 Spectre và máy bay phản lực vận tải. Chỉ huy ban đầu của Đặc nhiệm 373 được cho là Chuẩn tướng Raymond Palumbo, trực thuộc Bộ Chỉ huy Các chiến dịch đặc biệt bên trong căn cứ quân sự Fort Bragg, bang Bắc Carolina. Tuy nhiên, không lâu sau khi tướng Stanley McChrystal rời khỏi chức Tổng chỉ huy chiến trường Afghanistan vào giữa tháng 7/2010, Chuẩn tướng Palumbo cũng tự động biến mất khỏi căn cứ Fort Bragg.

 

 

 

 

Theo ANTĐ

Tệp đính kèm