Cập nhật: 18/04/2011 16:12:21 Article Rating
Xem cỡ chữ

Vào cuối thập niên 1980, khái niệm “tham gia 4 nhà” được tỉnh An Giang đưa ra nhằm mục đích định ra các thể chế, tổ chức và chính sách để triển khai các nghị quyết của Đảng và Nhà nước liên quan đến phát triển nông nghiệp và nông thôn. Khái niệm này càng ngày càng phát triển rộng rãi, không chỉ tại An Giang, mà còn cho các tỉnh, thành cả nước và trở nên quen thuộc với cái tên: liên kết "bốn nhà" (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước).

Việt Nam là một nước nông nghiệp. Đại bộ phận người dân sống ở vùng nông thôn lấy sản xuất nông nghiệp làm nghề chính. Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực và cung cấp nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Nhận thức được tầm quan trọng của nông nghiệp, để góp phần phát triển nông nghiệp hiện đại, hiệu quả, bền vững, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định “Thực hiện tốt việc gắn kết chặt chẽ “bốn nhà” (nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nước) và phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp”.

 

Những năm qua, nhờ đường lối đổi mới của Đảng, sản xuất nông nghiệp nước ta đã thu được những thành tựu quan trọng, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo tiền đề vật chất để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tốc độ giảm nghèo tương đối nhanh. Trong quá trình chuyển từ một nền sản xuất tiểu nông lên sản xuất lớn, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh ngày càng cao đòi hỏi sản xuất nông nghiệp phải được chuyên môn hoá, có sự phân công hợp tác lại với nhau cả về chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên, do sự phát triển không đồng đều mà trong từng địa bàn, từng vùng có những bước đi, cách làm với mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung để tạo lập và phát triển mối quan hệ liên kết kinh tế đều phải trải qua hai tất yếu cơ bản là: từ sản xuất tự nhiên, phân tán, tự cấp tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá; và, từ sản xuất phát triển theo chiều rộng (lượng) sang phát triển theo chiều sâu (chất). Những tất yếu đó phần nào đã làm rõ hơn tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, nó không chỉ giúp cho việc nhìn nhận, đánh giá hiệu quả của mô hình liên kết, mà còn qua đó, có thể đề xuất được những giải pháp có tính khả thi hơn về hoàn thiện mô hình liên kết để thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững.

 

Quan điểm, chủ trương của Đảng về liên kết trong sản xuất nông nghiệp

 

Giai đoạn trước năm 2000

 

Đảng ta chủ trương tập trung mọi nỗ lực để giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, nông dân có đủ lương thực, thực phẩm thiết yếu, từng bước chuyển sang phát triển nông nghiệp toàn diện hướng vào xuất khẩu nhằm góp phần hỗ trợ nông dân tiêu thụ được nông sản, thúc đẩy nông dân làm giàu chính đáng. Trên cơ sở đó, vừa tiếp tục mở rộng diện tích, tăng thêm vụ sản xuất, vừa đầu tư thâm canh, tăng vụ để tăng thêm khối lượng sản phẩm trên một đơn vị sản phẩm trên một diện tích canh tác; tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ,… Như: Phát triển nông nghiệp với “Chương trình sản xuất lương thực, thực phẩm” là trọng tâm (Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, năm 1986); Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng hợp lý cơ cấu sản xuất, “hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội” (Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, năm 1996); Từng bước “chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng nhanh khối lượng hàng hoá, nhất là hàng nông sản qua chế biến, tăng kim ngạch hàng xuất khẩu nông sản…” (Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 10 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị về vấn đề nông nghiệp, nông thôn)…

 

Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ này đã có tác dụng to lớn, bước đầu phát huy được nguồn lực vật chất và con người trong sản xuất nông nghiệp, nhất là đất đai, lao động nông nghiệp, đưa nước ta từ một nước thiếu lương thực phải nhập khẩu đã trở thành một nước đủ lương thực và có lương thực xuất khẩu; một số nông sản sản xuất ra với khối lượng lớn. Sản xuất nông nghiệp bước đầu đã có những chuyển biến tích cực từ nền sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá.

 

Giai đoạn từ năm 2000 đến nay

 

Ngay từ năm 2000, để chỉ đạo phát triển nông nghiệp, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP, ngày 15/6/2000 về “Một số chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp”; theo đó ngành nông nghiệp và các địa phương đã xây dựng các đề án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu tạo tiền đề cho sự liên kết giữa sản xuất nguyên liệu và nhà máy chế biến theo hướng sản xuất hàng hoá.

 

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã ra Nghị quyết số 15-NQ/TW về “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010” đã chỉ rõ: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn công nghiệp chế biến với thị trường; …. tập trung nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường”. Đồng thời, Nghị quyết cũng chỉ rõ mối quan hệ giữa sản xuất và công nghiệp chế biến trong cơ cấu kinh tế nông thôn, xu hướng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp…” với mục tiêu “đến 2010 giảm lao động nông nghiệp xuống còn 50%”.

 

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X khi nói về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn đã nêu rõ, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn công nghiệp chế biến và thị trường….

 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO nêu rõ việc tăng cường chỉ đạo phát triển nông nghiệp nông thôn là: phát triển quan hệ liên kết giữa các hộ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất muối với các cơ sở chế biến, doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, cơ sở nghiên cứu khoa học…”. Đây là tiền đề để nâng cao sức cạnh tranh của nông nghiệp.

 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở là lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng; … Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hoá nông nghiệp là then chốt. Như vậy, Đảng coi nông nghiệp là ngành kinh tế có tầm quan trọng sống còn, có vị trí trọng yếu trong cơ cấu nền kinh tế quốc dân, cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, đồng thời là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm… góp phần thực hiện xoá đói, giảm nghèo bền vững.

 

Để thực hiện xoá đói, giảm nghèo bền vững, Chính phủ cũng đã thể chế hoá bằng nhiều chính sách khuyến khích đầu tư vào phát triển nông nghiệp và chế biến nông sản như: Chính sách về đất đai, tài chính tín dụng, chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng theo Quyết định số 80/2002/QTDNDĐ-TTg ngày 24/6/2002. Các bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ của mình cũng đã xây dựng quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; quy hoạch vùng nguyên liệu nông, lâm sản.

 

Đến Đại hội XI, liên kết trong sản xuất nông nghiệp tiếp tục được Đảng nhấn mạnh. Đảng yêu cầu tiếp tục phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, trên cơ sở tích tụ đất đai, đẩy mạnh cơ giới hoá, áp dụng công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ sinh học. Đảng ta cũng chủ trương phát triển nhiều hình thức sản xuất nông nghiệp, như: Phát triển kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp, vùng chuyên môn hoá,… để phát huy lợi thế của từng vùng, miền, từng tổ chức.

 

Nhờ những chủ trương, chính sách đó, nông nghiệp đã tiếp tục phát triển nhanh, với số lượng sản phẩm hàng hoá lớn, hình thành vùng sản xuất chuyên canh gắn với chế biến, tạo ra sản phẩm hàng hoá có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế như cao su, cà phê, điều, lúa gạo… góp phần giúp nhiều nông hộ thoát nghèo, và cũng làm xuất hiện nhiều “tỷ phú nông dân” ở nhiều vùng, miền trong cả nước.

 

Hiệu quả thực hiện liên kết “bốn nhà”

 

Sản xuất nông nghiệp nước ta đang từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướng tập trung, chuyên canh, quy mô sản xuất nguyên liệu ngày càng lớn. Nhờ có các biện pháp phát triển sản xuất, trên các vùng, miền đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung như: sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long; vùng trồng cây công nghiệp ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ (cà phê, cao su, bông); vùng chè ở trung du, miền núi phía Bắc; vùng trồng cây ăn quả ở đồng bằng sông Cửu Long… Các vùng này đã tạo ra khối lượng hàng nông sản lớn, đáp ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu với số lượng, giá trị ngày càng cao, một số nông sản hàng hoá đã có vị trí cao trên thị trường (như cà phê, cao su, điều, hạt tiêu…); từng bước phát huy được lợi thế của từng vùng, địa phương, thiết thực góp phần phát triển kinh tế của đất nước và xoá đói giảm nghèo.

 

Hình thành và phát triển được một số cơ sở chế biến có công nghệ và thiết bị tương đối hiện đại, từng bước gắn với vùng sản xuất nguyên liệu. Đến nay, hầu hết các vùng nông sản có khối lượng lớn đã hình thành và phát triển được các cơ sở chế biến với trang thiết bị, công nghệ từng bước được hiện đại; huy động được nhiều loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế tham gia, như: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã…, bước đầu đã gắn kết nhà máy với nông hộ, góp phần giảm thất thoát sau thu hoạch, nâng cao giá trị của nông sản.

 

Bước đầu đã tạo được một số mô hình liên kết giữa cơ sở chế biến và vùng nguyên liệu, liên kết thông qua hợp đồng ở một số vùng, một số cây trồng chủ lực ngày càng trở thành phổ biến. Trong sản xuất đã hình thành và phát triển được các mối liên kết (theo chiều dọc, theo chiều ngang; liên kết trực tiếp, liên kết gián tiếp,…) giữa nông hộ và cơ sở chế biến; trong đó doanh nghiệp chế biến nông sản của Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, trung tâm. Hình thức liên kết thông qua hợp đồng ngày càng phát triển và trở thành phổ biến đối với một số cây trồng, từng bước đáp ứng được các yếu tố đầu vào của sản xuất (vốn, giống, vật tư, đất đai, lao động…) và đầu ra của sản phẩm (mua bán nguyên liệu, dự trữ, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm sau chế biến,…); từ đó tạo ra mối quan hệ ngày càng gắn bó giữa nhà máy chế biến và nông hộ, đảm bảo tính ổn định, phát triển bền vững của cả nông hộ và nhà máy chế biến; đồng thời, khắc phục được một bước những rủi ro thời tiết và thị trường.

 

Số lượng, chất lượng và giá trị hàng hoá nông sản ngày càng được nâng cao. Sự liên kết giữa nhà máy chế biến và vùng nguyên liệu đã tạo điều kiện khuyến khích sản xuất hàng nông sản phát triển, nhất là các loại hàng hoá nông sản xuất khẩu chủ lực có tốc độ phát triển nhanh, phù hợp với nhu cầu của thị trường, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản.

 

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động được đẩy mạnh. Liên kết giữa cơ sở chế biến và nông hộ đã thúc đẩy quá trình phân công chuyên môn hoá sản xuất, chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển một phần lao động nông nghiệp sang lao động trong ngành công nghiệp chế biến, dịch vụ nông nghiệp; góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thêm việc làm, cải thiện đời sống của nông dân, nhất là đồng bào dân tộc trong vùng nguyên liệu; đồng thời nâng cao trình độ tiếp thu khoa học - kỹ thuật, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún và làm thay đổi tập quán canh tác lạc hậu ở khu vực nông thôn. Cơ cấu kinh tế khu vực nông nghiệp giảm, chỉ chiếm 20,6% trong cơ cấu kinh tế chung; cơ cấu dân số nông thôn còn trên 60,92%; lao động nông nghiệp còn 48,2%; tỷ lệ thất nghiệp của khu vực nông thôn chỉ còn 2,27%; hộ nghèo theo chuẩn mới chỉ còn khoảng 9,5%.

 

Liên kết “bốn nhà” tuy đã đạt nhiều kết quả khả quan, nhưng cũng còn một số tồn tại, cần sớm được khắc phục, đó là:

 

Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, giá thành nông sản còn cao. Tuy công tác dồn điền đổi thửa đã được đẩy mạnh, nhưng đa số sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo mô hình kinh tế hộ gia đình, nên có quy mô nhỏ, manh mún (bình quân ở đồng bằng sông Hồng là 0,31ha/hộ, mỗi hộ có đến 7 thửa ruộng, mỗi thửa bình quân chỉ có 300-400m2,…), hạn chế nhiều đến việc ứng dụng khoa học, kỹ thuật, đầu tư cơ giới hoá theo hướng sản xuất lớn; năng suất còn thấp, chất lượng sản phẩm không đồng đều, tổn thất sau thu hoạch và giá thành sản xuất còn cao, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông san so với khu vực và thế giới thấp.

 

Công nghiệp chế biến lạc hậu, tính cạnh tranh của nông sản thấp. Tỷ trọng một số sản phẩm công nghiệp chế biến còn thấp so với nguyên liệu hiện có, sản phẩm mía đường được đưa vào chế biến chiếm 30%, chè 55%, rau quả 5%...; nhiều nhà máy còn sử dụng thiết bị dây chuyền cũ, lạc hậu (hệ số đổi mới thiết bị chỉ ở mức 7%/năm, bằng 1/2-1/3 so với các nước trong khu vực); mẫu mã, thương hiệu và chất lượng sản phẩm sau chế biến chậm được cải thiện nên chưa tạo ra nhiều nông sản có giá trị gia tăng cao, hiệu quả và tính cạnh tranh còn thấp.

 

Quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa gắn với tổ chức lại sản xuất. Phát triển vùng nguyên liệu còn mang tính tự phát, thiếu đồng bộ từ khâu quy hoạch đến bố trí hợp lý các cơ sở chế biến; giữa vận chuyển và bảo quản sau thu hoạch, dẫn đến tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch sản phẩm cùng loại của nước ta cao hơn các nước trong khu vực. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch đối với cây lương thực từ 10-15% (trong khi đó, Thái Lan 7-10%, Nhật Bản 3,9-5,6%,…); rau quả, trái cây 25-30% (trong khi Thái Lan và Inđônêxia là 15%);… Một số nông sản có lợi thế chưa được đầu tư cơ sở chế biến (rau quả, trái cây), xuất khẩu chủ yếu từ sản phẩm thô và xuất khẩu nguyên liệu, nên giá trị xuất khẩu một số mặt hàng nông sản so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới thường thấp hơn (khoảng 10-15%).

 

Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả liên kết

 

Để phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, gắn sản xuất với chế biến và thị trường cũng như mở rộng xuất khẩu, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

 

Đẩy mạnh xây dựng mô hình liên kết. Sớm tập trung xây dựng và kiện toàn một số mô hình nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ (tổ hợp nông - công nghiệp - dịch vụ) trong từng vùng sản xuất nông sản tập trung, có khối lượng hàng hoá lớn theo quy hoạch; trong đó lấy doanh nghiệp chế biến làm nòng cốt, đầu tầu hướng dẫn, giúp đỡ các nông hộ, tổ chức kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác sản xuất hàng hoá nông sản đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu.

 

Phát triển loại hình doanh nghiệp cổ phần có các cổ đông nông hộ của nhà máy chế biến, bằng hình thức thành lập mới hoặc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

 

Đa dạng hoá các hình thức liên kết, trong đó có hai hoặc nhiều chủ thể tham gia, như: doanh nghiệp chế biến nông sản nhà nước + chủ thầu, tư thương + nông hộ; doanh nghiệp chế biến nông sản nhà nước + hợp tác xã; hoặc các doanh nghiệp nhà nước về chế biến, cung ứng vốn, vật tư, tiêu thụ sản phẩm + hợp tác xã + hộ xã viên hợp tác xã, nông dân + các đơn vị nghiên cứu, chuyển giao khoa học và công nghệ,… trong đó, liên kết giữa doanh nghiệp chế biến nông sản của Nhà nước với hợp tác xã - người đại diện về lợi ích và trách nhiệm của hộ xã viên cần được khuyến khích phát triển.

 

Các mô hình liên kết trên cần triển khai các bước đi, cách làm cho phù hợp, từ thấp đến cap, trên cơ sở gắn được sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm trong từng địa bàn, vùng nguyên liệu. Thông qua đó, các yếu tố đầu vào của sản xuất (vốn, giống, vật tư, đất đai, lao động,…) và đầu ra của sản phẩm (mua bán nguyên liệu, dự trữ, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm sau chế biến,…) gắn với nhau một cách đồng bộ, thống nhất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trình độ phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đòi hỏi mô hình liên kết ngày càng phải hoàn thiện; chính vì vậy, quá trình hoàn thiện mô hình liên kết là quá trình chuyển từ các phương thức liên kết đơn giản, lỏng lẻo lên các phương thức liên kết phức tạp hơn, chặt chẽ hơn và ổn định hơn; từ việc trao đổi, mua bán thông thường trên thị trường, chuyển sang liên kết với nhau bằng các hợp đồng kinh tế và cao hơn là góp vốn cổ phần để cùng nhau chia sẻ một cách bình đẳng về lợi ích, rủi ro trong sản xuất - kinh doanh.

 

Đổi mới cơ chế quản lý trong sản xuất - chế biến nông sản, thực phẩm. Cần có chính sách khuyến khích việc gắn kết giữa sản xuất nguyên liệu và nhà máy chế biến, chuyển đổi các cơ sở chỉ có chế biến hiện nay phải gắn với vùng sản xuất nguyên liệu. Xây dựng các chế tài đủ hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện hợp đồng liên kết giữa nhà máy và nông hộ. Có chính sách khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân tham gia liên kết giữa nhà máy và vùng nguyên liệu; trong đó cơ sở, nhà máy chế biến làm nòng cốt trong việc bảo đảm lợi ích của các bên tham gia liên kết.

 

Đảm bảo liên kết hiệu quả, bền vững. Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện và quan trọng hơn là sự bình đẳng giữa các chủ thể về lợi ích, trong đó cần ưu tiên lợi ích đối với nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã, những người sản xuất nguyên liệu cung ứng cho công nghiệp chế biến nhằm tạo động lực tăng nhanh năng suất cây trồng, vật nuôi, giảm chi phí đầu vào của sản xuất nguyên liệu, hạ giá thành sản phẩm của công nghiệp chế biến.

 

Tăng cường sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước để gắn kết mối quan hệ nhà máy chế biến với vùng nguyên liệu thông qua việc: tạo thuận lợi về hành lang pháp lý, cung ứng tín dụng, xây dựng các quỹ bảo hiểm rủi ro, quỹ hỗ trợ xuất khẩu; xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng hệ thống thông tin, dự báo thị trường; phát triển sự nghiệp khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y tế,…

 

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước ở cơ sở. Liên kết giữa nhà máy chế biến với nông hộ thông qua hợp đồng là chủ trương đúng đắn của Đảng để đưa sản xuất nông nghiệp lên sản xuất hàng hoá lớn, sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Do đó, các chi bộ, đảng bộ ở cơ sở cần có Nghị quyết chuyên đề, phân công đảng viên tổ chức thực hiện. Đảng viên phải là người đi đầu, gương mẫu thực hiện các cam kết trong hợp đồng kinh tế, hướng dẫn, giúp đỡ các nông hộ sản xuất theo hợp đồng đã ký kết với doanh nghiệp.

 

Các cấp chính quyền địa phương cần chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt các chính sách phát triển vùng nguyên liệu, nâng cao chất lượng chế biến nông sản và ký kết hợp đồng sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; kiểm tra, phát hiện kịp thời những vướng mắc của doanh nghiệp và nông hộ, những trường hợp vi phạm hợp đồng. Hướng dẫn nông dân dùng giá trị quyền sử dụng đất để liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp chế biến nông sản, hoặc góp vốn cổ phần khi doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Chính quyền cấp huyện, nhất là cấp xã cần tích cực chỉ đạo, hỗ trợ nông dân thực hiện dồn điền, đổi thửa; bố trí sản xuất theo quy hoạch vùng nguyên liệu; giải quyết kịp thời các tranh chấp giữa người sản xuất.

 

Có thể thấy, chủ trương phát triển mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp của Đảng thời gian qua đã góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên canh, tập trung, có quy mô sản phẩm hàng hoá ngày càng lớn. Các hình thức liên kết, hợp tác giữa các chủ thể được hình thành và phát triển. Nhiều doanh nghiệp bước đầu đã thực hiện mô hình liên kết với nông hộ thông qua hợp đồng, từng bước đảm bảo công suất nhà máy chế biến, tăng hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Cũng thông qua mô hình liên kết này, người nông dân từng bước ổn định sản xuất, chất lượng cuộc sống từng bước được nâng cao, nhất là của đồng bào dân tộc trong vùng nguyên liệu. Với chủ trương đổi mới thực hiện mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp, tin tưởng rằng nông dân nước ta sẽ có cuộc sống đầy đủ hơn./.

 

 

 

Theo Báo điện tử ĐBND

Tệp đính kèm