Hoa Kỳ là thị trường mà VN đạt thặng dư thương mại lớn nhất với 18,64 tỷ USD. Tiếp đến là các Tiểu vương quốc Ảrập đạt 3,81 tỷ USD
Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong năm 2013, Việt Nam có trao đổi hàng hóa với gần 240 quốc gia và vùng lãnh thổ và đạt tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 264,26 tỷ USD, tăng 15,7% so với năm 2012.
Trong đó, số thị trường đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD của xuất khẩu tăng từ 25 thị trường năm 2012 lên 27 thị trường năm 2013 và nhập khẩu tăng từ 13 lên 17 thị trường.
Tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của các thị trường trên 1 tỷ USD chiếm gần 90% kim ngạch xuất khẩu và 88% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Trong số các thị trường trên 1 tỷ USD, có 3 thị trường xuất khẩu trên 10 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 38% trong tổng kim ngạch xuất khẩu) là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và 3 thị trường nhập khẩu trên 10 tỷ USD (chiếm tỷ trọng 52% trong tổng kim ngạch nhập khẩu) là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Xuất siêu trên 1 tỷ sang 16 thị trường
Năm 2013, có tới 16 thị trường Việt Nam xuất siêu trên 1 tỷ USD trong khi số thị trường nhập siêu chỉ là 6 thị trường.
Hoa kỳ tiếp tục là thị trường mà Việt Nam đạt thặng dư thương mại lớn nhất với 18,64 tỷ USD.
Trong năm 2013, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt tốc độ tăng là 21,4% với kim ngạch lên tới 23,87 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Hoa Kỳ trong năm 2013 đạt 5,23 tỷ USD, tăng 8,3% so với năm trước.
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong năm 2013 là: sản phẩm dệt may đạt 8,61 tỷ USD; giày dép các loại đạt 2,63 tỷ USD; sản phẩm từ gỗ đạt 1,98 tỷ USD; máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện đạt 1,47 tỷ USD; hàng thủy sản đạt 1,46 tỷ USD...
Thị trường các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất đạt được thặng dư thương mại lớn thứ 2 với 3,81 tỷ USD (do thị trường này là đầu mối xuất khẩu điện thoại các loại & linh kiện tăng cao tới 1,92 tỷ USD so với năm 2012).
Tiếp theo là Anh: 3,13 tỷ USD, Hồng Kông: 3,06 tỷ USD, Campuchia: 2,42 tỷ USD, Hà Lan: 2,26 tỷ USD...
Thị trường Nhật Bản đạt thặng dư thương mại 2 tỷ USD. Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Nhật Bản năm qua là 13,65 tỷ USD, tăng 4,5% so với năm 2012. Tuy nhiên, tốc độ tăng này khá khiêm tốn so với những năm trước đó (năm 2010 tăng 23%, năm 2011 tăng 40% và năm 2012 tăng 21%). Các nhóm hàng chính Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này là: hàng dệt may, dầu thô, linh kiện ô tô; máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng...
Trị giá nhập khẩu hàng hoá từ Nhật Bản năm 2013 là 11,61 tỷ USD. Trong đó, nhóm hàng máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng nhập khẩu là 2,96 tỷ USD; máy vi tính sản phẩm điện tử & linh kiện là 1,82 tỷ USD; sắt thép các loại đạt 1,64 tỷ USD; sản phẩm từ chất dẻo là 625 triệu USD...
Trong năm qua, thương mại hai chiều Việt Nam- Hàn Quốc đạt tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong số các đối tác thương mại chính của Việt Nam, với kim ngạch lên đến 27,33 tỷ USD, tăng 29,4% so với năm 2012. Trong đó, xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 6,63 tỷ USD và nhập khẩu là 20,7 tỷ USD. Các nhóm hàng Việt Nam xuất sang Hàn Quốc chủ yếu là sản phẩm dệt may, dầu thô, thủy sản, tàu thuyền các loại. Trong khi đó, những nhóm hàng chính Việt Nam nhập khẩu từ Hàn Quốc là máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện, máy móc thiết bị dụng cụ & phụ tùng, điện thoại các loại & linh kiện...
Ở chiều ngược lại, có 6 thị trường mà Việt Nam nhập siêu trên 1 tỷ USD, trong đó có 5 thị trường thuộc châu Á. Dẫn đầu mức thâm hụt là thị trường Trung Quốc với 23,69 tỷ USD, tiếp theo là Hàn Quốc: 14,07 tỷ USD, Đài Loan: 7,21 tỷ USD, Thái Lan: 3,45 tỷ USD, Singapore: 3,09 tỷ USD.
Với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 50,21 tỷ USD, tăng 22% trong năm 2013, Trung Quốc tiếp tục là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
Tuy nhiên, cán cân thương mại giữa hai nước ngày càng thâm hụt về phía Việt Nam.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2013, Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc tăng 28,4%, xuất khẩu chỉ tăng 7% nên nhập siêu là 23,76 tỷ USD, tăng 44,5% so với năm 2012.
Cụ thể, nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Trung Quốc đạt trị giá 36,95 tỷ USD, chiếm 28% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước.
Xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này đạt 13,26 tỷ USD, chiếm 10% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.
22 nhóm hàng đạt xuất khẩu trên 1 tỷ
Theo Tổng cục hải quan, chiếm tỷ trọng lớn (85,4%) trong kim ngạch xuất khẩu thuộc về 22 nhóm hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD.
Trong đó, đứng đầu là mặt hàng điện thoại các loại và linh kiện với 21,24 tỷUSD, tiếp theo là hàng dệt may với trị giá 17,95 tỷ USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện với trị giá 10,6 tỷ USD. Nhóm hàng đạt kim ngạch trên 10 tỷ USD này chiếm 37,7% trị giá xuất khẩu của cả nước và đóng góp vào tăng xuất khẩu là 14,15 tỷUSD.
Có 5 mặt hàng đạt trị giá xuất khẩu trong năm 2013 thuộc ngưỡng từ 5 đến 10 tỷ USD, đó là: giày dép các loại đạt 8,4 tỷ USD; dầu thô đạt 7,3 tỷ USD; hàng thủy sản đạt 6,7 tỷ USD; máy móc, thiết bị dụng cụ và phụ tùng đạt 6,04 tỷ USD, gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt gần 5,6 tỷ USD. Trị giá xuất khẩu của 5 mặt hàng này là gần 34 tỷ USD, chiếm 25,7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Số lượng mặt hàng đạt trị giá xuất khẩu từ 1 đến 5 tỷ USD trong năm 2013 là 14 mặt hàng. Tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này chiếm 22% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước trong năm. Dẫn đầu kim ngạch trong nhóm hàng này là phương tiện vận tải và phụ tùng với trị giá gần 5 tỷ USD, tiếp đến là gạo với kim ngạch xuất khẩu đạt 2,9 tỷ USD,...
Chiếm tỷ trọng nhỏ nhất (14,6%) trong tổng trị giá xuất khẩu của cả nước trong năm 2013 là những mặt hàng có trị giá dưới 1 tỷ USD. Tổng trị giá của nhóm hàng này là gần 19,3 tỷ USD, đóng góp gần 2,1 tỷUSD vào tăng xuất khẩu của Việt Nam trong năm qua.
Tính về nhóm hàng thì nhóm mặt hàng công nghiệp được ghi nhận là có đóng góp nhiều nhất vào tổng trị giá xuất khẩu của cả nước. Đây cũng là nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng khá cao mà đặc biệt phải kể đến một số mặt hàng có trị giá xuất khẩu vượt trội như điện thoại các loại và linh kiện (tăng mạnh 67,1% so với năm 2012); hàng dệt may (tăng 18,9% so với năm 2012) và máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (tăng 35,3% so với 1 năm trước đó).
Nhóm mặt hàng nông nghiệp trong năm 2013 đạt 19,8 tỷ USD, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2013 là năm chứng kiến nhiều khó khăn trong xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp của Việt Nam. Điển hình như đối với mặt hàng gạo, do một số thị trường truyền thống sụt giảm mạnh về trị giá nhập khẩu như Philippines, Indonesia nên cả lượng và kim ngạch xuất khẩu trong năm 2013 của mặt hàng này giảm nhiều so với năm 2012.
Tuy vậy vẫn có những mặt hàng có mức tăng trưởng khá như hàng rau quảđạt gần 1,1 tỷ USD, tăng 32,4%; cà phê đạt 1,65 tỷUSD, tăng 12% so với 1 năm trước đó.
Nhóm mặt hàng khoáng sản và nhiên liệu cũng là nhóm mặt hàng có tổng kim ngạch xuất khẩu giảm gần 16% so với năm 2012. Trong đó, mức suy giảm nhiều nhất thuộc về mặt hàng xăng dầu các loại với mức giảm 32,6% xuống còn 1,2 tỷ USD về trị giá và giảm 30% xuống còn 1,3 triệu tấn về lượng. Quặng và khoáng sản khác là mặt hàng duy nhất trong nhóm hàng này có tăng trưởng so với 1 năm trước đó./.
Theo Đặng Khanh/VOV.VN