Cần xây dựng các văn bản quy định pháp lý đồng bộ, có sự phân cấp, phân vùng, ranh giới rõ ràng hơn trong bảo tồn đa dạng sinh học biển.
Đa dạng sinh học biển đang bị đe dọa nghiêm trọng. Ảnh minh họa
Tại Hội thảo tham vấn về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển nằm ngoài vùng tài phán quốc gia tổ chức, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, Việt Nam là một trong những nước có đa dạng sinh học biển cao của thế giới, với hơn 20 kiểu hệ sinh thái, các loài sinh vật, nguồn gen phong phú và đặc hữu.
Hiện tại, Việt Nam đã có 2 di sản thiên nhiên thế giới, 8 khu dự trữ sinh quyển UNESCO và 6 Khu Ramsar đã được công nhận.
Tuy nhiên, theo nhận định của TS Dư Văn Toán, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, tài nguyên đa dạng sinh học biển đang đứng trước nguy cơ suy thoái rất nghiêm trọng, trong đó hoạt động hàng hải, tràn dầu trên biển (do va chạm và vỡ tàu dầu) là một trong những mối vấn đề cần được quan tâm giải quyết nhất.
Bởi lẽ, vùng ven biển nước ta tập trung rất nhiều tàu và thuyền bè đánh bắt cá, đã có một số trường hợp va chạm, dẫn tới vỡ tàu dầu, đe dọa đến sự tồn tại của nhiều loài thủy sản và san hô vùng biển.
Ngoài ra, việc khai thác thủy sản theo kiểu tận diệt bằng thuốc nổ, bừa bãi, hay các chất thải (do đô thị hóa, công nghiệp hóa, sinh hoạt), sự xâm nhập của sinh vật ngoại lai và tác động của biến đổi khí hậu cũng là những tác nhân khiến nhiều hệ sinh thái, loài sinh vật và nguồn gen sinh sống dưới biển bị suy giảm nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, vấn đề sinh vật ngoại lại xâm hại cũng cần được quan tâm giải quyết. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay có 48 loài động vật thủy sinh lạ xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều hình thức khác nhau. Trong đó, có 14 loài có tác động xấu tới đa dạng sinh học biển và nuôi trồng thủy sản truyền thống, cần quản lý chặt chẽ ở các cơ sở nuôi và tiêu diệt ở các vực nước tự nhiên.
Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Nguyễn Thế Đồng, để bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học biển, Việt Nam đã có hệ thống các văn bản pháp lý ở cả cấp quốc tế và quốc gia. Thế nhưng, đến nay nguồn tài nguyên đa dạng sinh học biển vẫn đang chịu áp lực ngày càng tăng từ tác động của con người. Đồng thời, nảy sinh những bất hợp lý và không công bằng trong bảo tồn, quản lý và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên này.
Cho đến nay, các vùng biển nằm ngoài vùng tài phán quốc gia được điều chỉnh bởi một số văn bản pháp lý quốc tế ở cấp toàn cầu và khu vực. Đặc biệt, Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 là khuôn khổ pháp lý toàn diện đối với các đại dương của thế giới và biển, quy định quản lý sử dụng tất cả các đại dương và nguồn tài nguyên biển. Công ước về Đa dạng sinh học năm 1992 là công cụ bổ sung hiệu quả đối với việc bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển.
Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản, Luật điều chỉnh vấn đề bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học biển như: Luật Thủy sản, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật biển Việt Nam và các văn bản dưới luật khác.
Ðể phát huy được hiệu quả quản lý, theo ông Nguyễn Thế Đồng, các Bộ, ngành có liên quan về quản lý và bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học cần xây dựng các văn bản quy định pháp lý đồng bộ, có sự phân cấp, phân vùng, ranh giới rõ ràng hơn.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần chú trọng xây dựng các thương hiệu cho các loài đặc hữu và các kỳ quan sinh thái, đẩy mạnh thông tin, quảng bá về đa dạng sinh học biển, gắn liền với việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia cùng nhau thực hiện các chính sách bảo tồn mang tầm thế giới.
Đồng tình với quan điểm này, TS Dư Văn Toán cũng cho rằng, Việt Nam đang thiếu một đầu mối chung về quản lý tài nguyên đa dạng sinh học, mặc dù đã có rất nhiều cơ quan cùng tham gia. Ngoài ra, lực lượng giám sát cũng còn thiếu, các văn bản quy định pháp lý chưa đồng bộ, trong khi sự phân cấp, phân vùng cho hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học biển còn chưa rõ ràng.
Thu Cúc
Theo Chinhphu.vn