Cập nhật: 19/01/2017 10:21:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Mùa xuân là mùa đầu tiên của năm mới, là mùa sinh sôi của muôn loài trong bản thể vũ trụ, mùa giao hòa của âm dương, trời đất, mùa hội hè, đình đám, hát giao duyên, mùa lứa đôi sum vầy hạnh phúc…Trong những ngày đó có thể nói rằng lễ Tết là một ngày lễ quan trọng nhất, ngày lễ đầu tiên của năm mới.

Lễ hội ở nước ta có từ rất sớm, có thể nói  ngay từ thời kỳ Văn hoá Đông Sơn với sự xuất hiện của nhà nước sơ khai đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Từ những nét phác họa đầu tiên của một lễ hội của cư dân nông nghiệp - người Việt phương Nam đã được thể hiện một cách sinh động qua những hoa văn trên những chiếc trống đồng thời kỳ văn hoá Đông Sơn (thế kỷ VIII-VII trước công nguyên đến thế kỷ I-II sau công nguyên). Qua những hình tượng người nhảy múa, đua thuyền, giã gạo, với hình tượng trung tâm là mặt trời, đã thể hiện khá rõ nét đời sống tinh thần vô cùng phong phú của cư dân nông nghiệp thờ thần mặt trời và gắn bó với sông nước.

Sách Hán thư chép rằng: “Người Lạc Việt đến mùa thu tháng tám thì mở hội, trai gái hát giao duyên, bằng lòng nhau thì lấy nhau”.

Sách “Thái bình hoàn vũ ký” cũng viết: Người Lạc Việt không biết Tết, biết năm (theo lịch Trung Hoa), cứ lấy ngày sửu tháng 8 làm ngày hội, già trẻ đi chúc tụng nhau, coi đó là ngày đầu năm”.

Sở dĩ ban đầu hội mở vào mùa thu vì thời gian này phù hợp với lịch nông nghiệp, người ta có điều kiện để vui chơi. Lễ hội thời kỳ này mang tính chất thuần Việt giàu âm hưởng của văn hoá Đông Nam á cổ đại khi chưa chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán.

Sang thời kỳ Bắc thuộc, với sự du nhập của văn hoá Hán, cùng với đó là lịch phương Bắc, phong tục ăn Tết Nguyên đán đã dần được nhân dân ta tiếp thu và phát triển trở thành một nét văn hoá đẹp trong đời sống của người Việt Nam.

Tết là biến âm từ “tiết” mà ra, chỉ những ngày lễ được phân bố theo các tiết thời gian trong năm, đan xen giữa các khoảng trống trong lịch thời vụ. Do dân ta gần 90% làm nghề nông, trồng lúa nước mang tính thời vụ cao, bận tối ngày nên bình thường ăn uống đại khái. Cho nên những lúc nhàn hạ (vào tiết nông nhàn), họ có tâm lý chơi bù, ăn bù cho thoả những ngày đầu tắt mặt tối. Vì thế ngoài hệ thống lễ hội rất phong phú, dân Việt và nhiều dân tộc khác có hệ thống lễ Tết không kém phần đa dạng bao gồm 12 Tết: Tết Khai hạ, Tết Thượng nguyên, Tết Hàn thực, Tết Thanh minh, Tết Đoan Ngọ, Tết Trung nguyên, Tết Trung thu, Tết Trùng cửu, Tết Trùng thập, Tết Hạ nguyên, Tết Ông táo, Tết Nguyên đán. Trong đó Tết Nguyên đán là ngày Tết quan trọng nhất. Theo phong tục thì đây là thời điểm gặp gỡ của con người với thần linh trong nhà, tiên sư, nghệ sư, thổ công (thần đất), táo quân (thần bếp) với tổ tiên, ông bà đã khuất. Mọi người trong gia đình họ mạc dù đi đâu, làm gì, hàng năm mỗi ngày Tết đến ai cũng cố gắng về sum họp với gia đình.

Cùng với quá trình Hán hoá, các thư tịch cổ của Trung Quốc ít nhiều cũng nghi chép nhiều về phong tục tập quán của ta, đặc biệt là phong tục ăn Tết Nguyên đán.

Sách Tuỳ thư (Địa lý chí) của Trung Quốc thời kỳ này đã viết về phong tục của người Việt như sau: “Năm nào đến ba ngày Tết Nguyên đán, người ta cũng dọn cỗ bàn linh đình cúng tổ tiên. Trai gái ăn chay và dùng hương hoa niệm Phật rồi rủ nhau đi chơi đu, ném còn, hát múa, kéo co. Bên nào được cuộc thì uống rượu, bên nào thua thì uống nước lã…Tháng 7 làm hình vàng mã đốt cúng vong hồn. Trong làng xóm có hội bơi chải, đua thuyền. Tháng 8 nhà nông giết trâu bò, tế thần đất, bày tượng, chơi trò leo cột, đập tay, hay làm lễ Phật cầu yên”.

Sưu tầm

Tệp đính kèm