Cập nhật: 29/03/2016 08:57:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Sa sinh dục thường gọi là sa dạ con hay sa tử cung. Nhưng thực tế không chỉ dạ con mà thường cả bàng quang và trực tràng sa vào trong âm đạo.

Thăm khám giúp phát hiện bệnh sa sinh dục. (Ảnh: TM)

Sa sinh dục thường gọi là sa dạ con hay sa tử cung. Nhưng thực tế không chỉ dạ con mà thường cả bàng quang và trực tràng sa vào trong âm đạo. Trường hợp nặng, các tạng trên có thể sa ra ngoài âm đạo. Do đó, người ta gọi là sa sinh dục. Đây là bệnh không nguy hiểm đến tính mạng nhưng ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt, lao động của phụ nữ. Chị em thường cam chịu, giấu bệnh vì căn bệnh khó nói này nên phải đối mặt với nhiều khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là rắc rối trong quan hệ vợ chồng.

Tử cung là một tạng nằm sâu trong ổ bụng. Nó được giữ tại chỗ bằng lớp cơ và các tổ chức vùng đáy chậu (dàn của phần dưới khung xương chậu), bởi các thành âm đạo và các dây chằng trong bụng và chậu hông. Nếu vì một lý do nào đó, các bộ phận neo giữ tử cung bị giãn, nhão ra thì áp lực trong ổ bụng (khi thở, khi rặn, khi ho) và sức nặng của tử cung sẽ đẩy, kéo nó tụt dần xuống thấp gây nên sa sinh dục với các mức độ khác nhau.

Nguyên nhân sa sinh dục?

Nguyên nhân gây bệnh có thể do: đẻ sớm, đẻ dày, đỡ đẻ không đúng kỹ thuật, sau đẻ lao động sớm hoặc lao động nặng, người ốm yếu suy dinh dưỡng sau đẻ hoặc thiếu ăn, suy dinh dưỡng, cơ thể ốm yếu, tất cả các nguyên nhân trên đều dẫn đến tình trạng các dây chằng của tử cung (dây chằng tử cung cùng, dây chằng tròn, dây chằng rộng và các mô liên kết), các cơ vùng đáy chậu bị giãn mỏng, suy yếu hoặc bị rách, không đủ sức giữ tử cung ở vị trí cũ. Do đó, khi có một động tác nào làm cho áp lực trong ổ bụng bị tăng lên như ho liên tục, đại tiện phải rặn nặng khi táo bón… sẽ đẩy tử cung sa xuống dưới và ra ngoài âm đạo.

Biểu hiện của sa sinh dục?

Trên lâm sàng, sa sinh dục (vị trí sa của cổ tử cung so với âm hộ) chia làm 3 độ sa sinh dục: độ 1 (độ nhẹ), độ 2 (vừa) và độ 3 (nặng). Tùy theo từng người, tùy mức độ sa nhiều hay sa ít, mới sa hay sa từ lâu, sa đơn thuần hay còn có thương tổn phối hợp, có kèm theo sa bàng quang hay trực tràng mà xuất hiện những dấu hiệu thường gặp sau đây: khó chịu, cảm giác tức nặng vùng cửa mình, ở bụng dưới, nhất là khi đứng, nhưng khi nằm thì hết cảm giác trên. Đôi khi có cảm giác muốn rặn đẻ vì các tĩnh mạch ở vùng đáy chậu bị sa sung huyết, đồng thời do áp lực trong thành bụng dồn xuống vùng đáy chậu đã bị suy yếu. Hay bị đau vùng sau thắt lưng. Tùy theo mức độ sa nhiều hay ít, thời gian sa mới hay đã lâu, sa đơn thuần hay có tổn thương phối hợp. Khối sa lồi ở vùng âm hộ, tầng sinh môn; Ban đầu kích thước khối sa nhỏ, sa không thường xuyên, xuất hiện khi lao động nặng hoặc đi lại nhiều, nằm nghỉ thì khối sa tụt vào trong âm đạo hoặc tự đẩy lên được, càng về sau khối sa càng to, sa thường xuyên, không tự đẩy lên được nữa. Tức nặng bụng dưới, cảm giác vướng víu khó chịu vùng âm hộ - tầng sinh môn, ảnh hưởng đến lao động và sinh hoạt hằng ngày của bệnh nhân. Nếu kèm theo sa bàng quang thì có dấu hiệu đi đái khó, đái dắt, són đái khi cười to, khi ho mạnh hay khi bị rùng mình, thường đái không hết nước tiểu nên bàng quang dễ bị viêm gây ra đái buốt. Trường hợp sa bàng quang nhiều thì lúc đầu đi tiểu rất khó khăn, phải dùng ngón tay đẩy bàng quang lên trên và vào trong mới đi tiểu được. Đôi khi bệnh nhân đến viện vì bí đái cấp. Nếu kèm theo sa trực tràng thì đại tiện có cảm giác vẫn còn chưa hết phân ở trực tràng, có thể bị táo bón. Nhiều người sa sinh dục nhưng kinh nguyệt vẫn bình thường và vẫn có khả năng có thai. Những phụ nữ này dễ bị sẩy thai và đẻ non. Chảy máu, khí hư ra nhiều do cổ tử cung viêm nhiễm, cọ xát làm người bệnh đi lại khó khăn, hạn chế lao động…

Điều trị thế nào?

Tuỳ độ sa mà sau khi thăm khám bác sĩ sẽ có chỉ định can thiệp ngoại khoa (thường khi sa mức độ 3). Trước đây, để điều trị bệnh sa sinh dục, các bác sĩ thường dùng phương pháp cắt tử cung, khâu treo bàng quang, làm lại thành trước và sau âm đạo hoặc phẫu thuật bịt âm đạo. Như vậy, đồng nghĩa với việc loại bỏ người bệnh khỏi “cuộc chơi yêu đương”, chấm dứt “chuyện yêu” của người phụ nữ khiến người phụ nữ luôn mặc cảm, đánh mất đi hạnh phúc làm vợ, làm mẹ của họ và gặp nhiều biến chứng. Hiện tại, bằng phương pháp chữa bệnh mới sẽ giúp người bệnh giữ được dạ con và vẫn sinh nở bình thường với điều kiện người bệnh phải điều trị sớm.

BS. Phạm Minh Nguyệt

Theo suckhoedoisong.vn

Tệp đính kèm