Hình thành cách đây hàng nghìn năm, làng Thổ Tang xưa nay là thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc đã nổi tiếng là vùng đất nhiều nghề, giỏi giao thương buôn bán, cũng là vùng đất có truyền thống hiếu học, với nhiều người đỗ đạt cao qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đây còn là nơi hiện có 4 di tích đã được Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch xếp hạng, trong đó có miếu Trúc Lâm và đình Phương Viên.
Miếu Trúc Lâm và đình Phương Viên thờ Lân Hổ Đô Thống đại vương – Vị tướng đã có công giúp vua Trần Nhân Tông đánh giặc Nguyên Mông xâm lược ở thế kỷ 13.
Chuyện xưa kể rằng: Lân Hổ quê ở huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội). Thân mẫu ông là bà Phùng Thị Dung làm nghề kiếm củi mưu sinh. Một hôm, bà vào rừng kiếm củi vì mệt nên ngủ thiếp đi, bỗng có đám mây hồng bay đến bao quanh mình, lại có tiếng hổ gầm vang động cả khu rừng, bà giật mình tỉnh dậy. Về nhà ít lâu bà mang thai, sinh ra một cậu bé khôi ngô tuấn tú. Bà đặt tên con là Lân Hổ. Lớn lên, Lân Hổ mình cao 8 thước, sức nhấc trăm cân, võ nghệ cao cường và có tài thao lược. Thế kỷ 13, giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta, vua Trần xuống chiếu tìm người hiền tài ra cứu nước. Nghe lời hiệu triệu vua ban, Lân Hổ xin ra nhập quân đội và được vua Trần ban cho cầm quân đánh giặc ở phía Bắc. Ông dẫn quân qua Thổ Tang lên Bạch bầy binh bố trận, lập phòng tuyến chiến đấu oanh cường và đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch. Trong một trận chiến qua đất Thổ Tang, Lân Hổ bị trọng thương để lại vũng máu tại nơi này. Tưởng nhớ tới người con ưu tú của đất nước, các làng xã nơi danh tướng Lân Hổ hành quân đánh giặc đã lập đền thờ ông, nhân dân Thổ Tang đã xây dựng 3 di tích thờ Lân Hổ Đô Thống đại vương, đó là đình Thổ Tang, miếu Trúc Lâm và đình Phương Viên và tôn ông làm Thành hoàng làng, hằng năm bốn mùa hương khói.
Tọa lạc trên một khu đất có diện tích rộng gần 2 ha, với nhiều cây xanh tỏa bóng mát, miếu Trúc Lâm được xây dựng ở vị trí cao hơn nền đất xung quanh gần 2m về phía Nam, điều này phù hợp với dòng chữ Hán ghi trên câu đầu bên trái của nhà tiền tế.
Miếu Trúc Lâm được xây dựng từ thời Hậu Lê, đến thời Nguyễn, năm Dục Đức nguyên niên 1883, miếu được trùng tu trên quy mô lớn.
Theo một số tư liệu lịch sử địa phương và các vị cao niên trong làng kể lại: Trước đây, ở Thổ Tang có 2 ngôi miếu, miếu Trúc Lâm thờ Lân Hổ Đô Thống đại vương chỉ có một tòa nhà, nay là phần hậu cung và miếu Đức Thánh Mẫu (thờ Mẫu thân của ngài” cách miếu Trúc Lâm 300m. Về sau, nhân dân rước ngai thờ của Thánh Mẫu về miếu Trúc Lâm và cũng di chuyển luôn ngôi miếu này về làm nhà tiền tế. Điều này giải thích cho sự đa dạng kiến trúc của miếu Trúc Lâm hiện nay, bởi hầu hết kiến trúc miếu thời Hậu Lê đều không tách biệt giữa tiền tế và hậu cung mà chỉ có một tòa nhà dọc khá đơn giản, trong đó chỉ có khám thờ đảm nhận luôn chức năng của thượng cung. Hiện nay kiến trúc miếu Trúc Lâm gồm có nhà tiền tế và hậu cung, không liên hoàn theo kiến trúc “chuôi vồ” thường thấy ở các di tích khác mà được chia tác riêng biệt bởi một khoảng sân nhỏ. Đây là kết quả của việc bổ sung thêm nhà tiền tế vào thời Nguyễn, đồng thời cũng được xem là điểm khác biệt trong kiến trúc của miếu Trúc Lâm so với các dích khác xây dựng cùng niên đại trong vùng.
Nhà tiền tế của miếu Trúc Lâm có 3 gian, được tạo dựng bởi 4 hàng chân cột tỳ lực lên hệ thống 16 cột bằng gỗ mít chắc khỏe, với chức năng làm lực đỡ cho nhà tiền tế . Kết cấu vì, mái theo lối “giá chiêng, chồng giường, liên kết với phía dưới là “thượng kẻ, hạ bẩy”, với các kẻ kiểu “cổ ngỗng” có thân hình uốn cong mềm mại, một đầu ăn vào thân cột cái, phần nghé kẻ tì vào phía dưới câu đầu và các bẩy hiên được trang trí đề tài “long tang cúc diệp” tức là rồng ẩn trong lá cúc hay “cúc diệp hóa long” tức là lá cúc hóa rồng. Đây là đề tài phổ biến trong trang trí kiến trúc thời Nguyễn khi nghệ thuật dân gian bị hạn chế, thay vào đó là sự tập chung chủ yếu các đề tài “tứ linh”, “tứ quý”.
Tòa hậu cung là phần kiến trúc nguyên gốc của miếu Trúc Lâm. Nổi bật nhất là bức chạm “cửu long”. Chính giữa bức chạm là hình đầu rồng, với khuân mặt hiền lành với đôi tai to, vểnh lên, mắt tròn, mũi to, miệng rộng , bờm tóc tỏa ra hai bên tạo thành các đao mác, vân mây cách điệu, có 3 móng nhọn sắc, xung quanh rồng lớn có 8 hình rồng thân rắn trơn, nhỏ, đầu nhô lên, mình ẩn trong các đao mác.
Cách miếu Trúc Lâm không xa là đình Phương Viên, đình nằm ở vị trí trung tâm của thị trấn Thổ Tang. Đình Phương Viên cũng được xem là tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc dân gian ở Việt Nam nói chung, Vĩnh Phúc nói riêng ở cuối thể kỷ 19, đầu thế kỷ 19.
Dù chưa rõ đình Phương Viên được xây dựng năm nào, nhưng đình mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Tuy được xây dựng muộn nhưng đình Phương Viên lại có quy mô tương đối lớn gồm 3 hạng mục: cổng đình, đại đình và hậu cung.
Đình có kiến trúc theo kiểu chữ đinh. Mái đình xòe rộng ra 4 phía, kéo dài đến 2/3 chiều cao của đình song không nặng nề mà rất thanh thoát, sinh động bởi đường bờ dải gẫy khúc lượn cong cách điệu thành đầu rồng. Trên các bờ nóc, chỗ gẫy khúc đều được gắn linh vật như lân, ly, vừa làm nhiệm vụ giữ mái đình, lại có tác dụng trang trí để giảm đi sự nặng nề, đồ sộ vốn có của đình làng. Cửa đình có các bậc lên xuống được lát bằng gạch. Hai con Rồng đá chạy dọc hai bên từ dưới sân lên trên nền đình trang nghiêm mà sinh động .
Tòa đại đình gồm 2 gian 3 dĩ và hậu cung 2 gian. Lòng đình có 8 hàng cột ngang và 6 hàng cột dọc, được tạo hình “đầu cán cân, chân quân cờ” gồm: cột cái, cột quân và cột hiên. Tất cả các cột đều được đẽo tròn, bào nhẵn, dáng cột chân hơi cúp bung nở rồi thu dần lên phía đầu cột. Thượng lương làm kiểu tứ trụ, kết cấu vững trãi. Lối kiến trúc này làm cho mức đồ sộ của đình Phương Viên vượt trội hơn hẳn các đình khác trong vùng. Liên kết ngang lòng đình trên cơ sở các cột là kết cấu vì, liên kết dọc toàn đình là hệ thống các loại xà.
Đi đôi với kiến trúc, đình Phương Viên hiện còn lưu giữ được nhiều di vật có giá trị về lịch sử - văn hóa như: Án thư, lư hương, hoành phi, câu đối, ngai thờ, sắc phong, đặc biệt là bộ kiệu “bát cống”, được làm từ thế kỷ 18, với những hoa văn chạm khắc tinh xảo ở toàn bộ phần thân và đòn kiệu. Các đầu kiệu được chạm hình rồng ngẩng cao với nhiều bờm tóc hất ngược về phía sau, thân rồng dài có nhiều vẩy, hai mắt lồi to, miệng rộng ngậm ngọc. Phía dưới của kiệu chạm hình lưỡng long và hổ phù, đuôi to mập có nhiều vây mác.
Với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” có tự ngàn đời của dân tộc Việt Nam, hằng năm Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thị trấn Thổ Tang đều tổ chức lễ hội, nhằm ôn nhớ lại công lao của Đô Thống Đại Vương đối với dân tộc Việt Nam nói chung, nhân dân địa phương nói riêng.
Lễ hội truyền thống thị trấn Thổ Tang được tổ chức trong 3 ngày từ mùng 10 – 12 tháng Giêng âm lịch hằng năm, và cứ 5 năm tổ chức trên quy mô lớn một lần. Trong lễ hội nhân dân và du khách thập phương được chứng kiến những nghi thức truyền thống mang đậm yếu tố văn hóa tâm linh như: ngày mùng 10 tháng giêng âm lịch tổ chức lễ rước sắc, rước nghinh, rước bình hoa từ miếu Trúc Lâm về đình Thổ Tang.
Các thành viên tham gia các phần nghi thức rước lễ được Ban tổ chức lựa chọn rất kỹ càng, đó là những bậc cao niên có uy tín được nhân dân địa phương nể trọng và những chàng trai khỏe mạnh của gia đình đình có văn hóa, nề nếp trong làng. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng để tạo nên tính linh thiêng của lễ hội, để rồi nhân dân và du khách thập phương cùng đồng hành thành kính cùng nhau thực hiện nghi lễ mang đậm sắc thái tâm linh đã để lại trong lòng người dân địa phương và du khách xa gần những ấn tượng khó quên.
Trải qua bao thăng trầm của thời gian và lịch sử đến nay, miếu Trúc Lâm, đình Phương Viên nói riêng, hệ thống di tích lịch sử - văn hóa thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường luôn được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân dân địa phương gìn giữ, tôn tạo, nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống mà cha ông để, đồng thời còn giáo dục cho các thế hệ cho cháu con trong việc gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống của quê hương.
Có thể nói, miếu Trúc Lâm, đình Phương Viên nói riêng, hệ thống di tích lịch sử - văn hóa thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc nói chung được “Hun đúc từ truyền thống Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, bản sắc, cốt cách Việt Nam từ đời này kế tiếp đời khác…”, nên đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Các di tích có sức sống mãnh liệt, gợi lên âm hưởng hào hùng về qua khứ vẻ vang của dân tộc, mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, biểu thị lòng tôn kính của nhân dân đối với vị tiên hiền; nên vấn đề bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân mà của toàn xã hội.
ST