Cập nhật: 06/01/2017 14:25:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

  

Ảnh Internet

Hàng năm vào tháng Giêng - mùa lễ hội - cũng như bao làng quê khác, nhân dân thôn Phù Liễn - xã Đồng Tĩnh - huyện Tam Dương lại tổ chức lễ hội truyền thống: Hội “Đúc Bụt” để ôn lại một truyền tích đáng tự hào, mà ở trong tỉnh Vĩnh Phúc chỉ riêng làng Phù Liễn mới có lễ hội đặc biệt này.

Theo các cụ già ở địa phương kể lại, tương truyền lễ hội “Đúc Bụt” là một hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian đã có từ rất lâu, nhằm ôn lại quá trình chiêu mộ nghĩa sĩ, tập hợp lực lượng, rèn đúc vũ khí của Ngọc Kinh công chúa, một nữ tướng tài ba, chí dũng vẹn toàn, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đền nợ nước, trả thù nhà, diệt giặc Tô Định những năm 40 sau Công nguyên đã từng được ghi vào chính sử.

Truyện kể rằng Ngọc Kinh công chúa (Mỹ Tự được Vua Bà phong sau khi dẹp xong Tô Định, Trưng Trắc lên ngôi vua), nguyên là một phụ nữ tài đức vẹn toàn đã có chồng và hai người con trai, khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà đã để các con ở lại quê, theo về với Hai Bà đánh giặc, được Hai Bà cử về quê Phù Liễn mộ quân, rèn đúc vũ khí, chuẩn bị lực lượng. Tại đây, Bà đã ẩn mình dưới dạng nhà sư, tu luyện tại chùa Phù Liễn, dạy cho dân biết làm sĩ, nông, công, cổ.

Sĩ: là dạy dân học hành, nâng cao hiểu biết, bồi đúc lòng căm thù giặc Hán xâm lược.

Nông: là dạy dân cày cấy, trồng trọt, săn bắn làm ra sản phẩm chủ động nuôi sống người và cung cấp lương thực cho nghĩa sĩ.

Công: là nghề phụ trợ, ở đây là nghề rèn đúc sản xuất công cụ sản xuất và vũ khí đánh giặc.

Cổ: là cổ giả, nghĩa là sự lưu thông hàng hoá, đồng thời cũng là hình thức thông tin, dò la tin tức giặc...

Từ đó, Đức Bà đã dần xây dựng được lực lượng đông đảo, bao gồm những người dân Phù Liễn và các vùng xung quanh, cùng với 65 quận thành trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng giành độc lập.

Sau này, để tưởng nhớ công lao, nhân dân Phù Liễn đã lập Đền thờ Bà và quen gọi là Đền thờ Đức Bà lưu truyền đến ngày nay. Và hàng năm cứ đến ngày 8 tháng giêng (ngày hoá của Đức Bà), nhân dân lại tổ chức lễ hội diễn lại các tích trò xưa, và trong đó, tích trò “Đúc Bụt” được đặc biệt quan tâm và không thể thiếu trong ngày lễ hội.

Để chuẩn bị cho lễ hội, thường vào trung tuần tháng Chạp ta năm trước các quan viên, bộ lão trong làng đã họp bàn, quyết định tổ chức mở lễ hội, phân công công việc và chọn lựa những người trực tiếp tham gia, những người trực tiếp tham gia, những người được chọn lựa đều phải đạt các nghi lễ theo lệ làng, về cơ bản đó phải là những trai thanh, gái lịch hoặc người già phải gương mẫu, song toàn, gia đình ấm êm, hoà thuận, được hàng xóm mến phục tin yêu... Trong đó nghiêm ngặt nhất là bầu chọn ông chủ lễ, chủ trò và 3 thanh niên chọn làm Bụt.

Những người tham gia gồm:

Ông Chủ tế, 3 thanh niên khoẻ mạnh, chưa có vợ, gia đình song toàn, gương mẫu.

1 ông thợ Đúc Bụt (cũng là người chủ trò) kèm theo có các công việc bổ củi, kéo bễ, nấu đồng, quạt lò, che lọng (mỗi công việc có 1 người thực hiện)

1 vị sư và 5 bà vãi phục vụ

1 ông giáo học (có tráp, bút kèm theo) và 5 học trò

Nghề nông có: 1 thợ cày, 1 thợ cấy, 1 người làm trâu kéo cày, 1 người phát bờ, 1 người cuốc góc, 1 người nhổ mạ, 1 người tát nước, 1 người câu ếch

Tất cả khoảng 30 người trực tiếp tham gia diễn trò.

Các công việc chọn người, chuẩn bị đồ dùng, dụng cụ... được dân làng chuẩn bị kỹ càng, chu đáo từ trước tết Âm lịch để ăn tết xong cả làng sẽ vào hội.

Đúng ngày 8 tháng Giêng Âm  lịch; ngay từ sáng sớm, tất cả người dân trong làng và các vùng xung quanh đã nô nức tập hợp về khu vực sân Đình làng, Ban tế làm lễ tế thân tại Đình, sau 3 tuần tế, ông Chủ tế xin âm dương và phân công quan viên đi Đúc Bụt, các quan viên cùng dân làng chuẩn bị xôi, trầu cau, chiếu.v.v... và những người đã được lựa chọn tham gia các tích trò Sĩ, nông, công, cổ nêu trên cùng 3 thanh niên đã lựa chọn kỹ tiến ra vùng ao (hoặc ruộng) đã tát cạn hết nước từ hôm trước (thông thường là ở gần bờ kênh Liễn Sơn, cách đình làng khoảng 500m) tới nơi, 3 thanh niên tự xuống ao, lấy bùn trát kín toàn thân, sau đó, quan viên sẽ dùng 1 sợi dây buộc ngang 1/3 (theo chiều rộng) một chiếc chiếu cói, rồi để xoè phần dưới chụp lên đầu mỗi Bụt một chiếc riêng “Bụt” đi giữa, trên đỉnh đầu, phần chiếu buộc phía trên có đặt một bó mạ xanh, sau đó quan viên và dân làng làm  lễ rước “Bụt” về đình.

Thoạt tiên, sau khi chùm chiếu xong, các cụ phụ lão  dùng trầu cau đã được chuẩn bị sẵn, bón cho mỗi “Bụt” một miếng, rồi cả đoàn người cùng ông Chủ lễ từ từ tiến về đình trong tiếng chiêng, trống, cờ xí và các điệu múa dân gian. Trên đường đi sẽ diễn ra tất cả 3 lần mời trầu do các tốp phụ lão khác nhau lần lượt bón cho “Bụt” thì cả đoàn rước mới về tới sân đình.

Khi đoàn rước “Bụt” về tới đình, ông Chủ tế sẽ làm thủ tục xin phép Thần Thành Hoàng, 3 “Bụt” sẽ chạy nhanh vào khoảng trống ở sân Đình đã được định sẵn, ngồi thành hàng ngang, quay mặt vào gian chính giữa cửa đình, xung quanh nhân dân quây thành một vòng tròn có đường kính khoảng 15m, đồng thời tất cả các tích trò đều được diễn ra ngay trong vòng tròn đó, trong tiếng chiêng trống, hò reo vui vẻ của cả biển người. Các trò được diễn ra như sau:

Những người làm ruộng, trâu kéo cày, người cầm cày chạy theo ngược với chiều kim đồng hồ, cùng các tốp thợ nhổ mạ, tát nước, phát bờ, cuốc góc, câu ếch... cùng vừa diễn động tác, vừa chạy theo người thợ cày.

Ở một góc, ông giáo học đang lên lớp giảng bài cho học sinh và tích trò trung tâm là ông chủ trò (vai người thợ Đúc Bụt) có thợ phụ trợ là bổ củi, quạt lò kéo bễ... để nấu đồng trong một chiếc nồi đất to (đường kính từ 0,60 - 0,8m), ông thợ đúc chân đi tập tễnh, thi thoảng lại bị thợ phụ đá cho một cái (nhằm gây cười); cũng như vậy anh thợ cuốc bờ thì để lưỡi cuốc ngoảng ra ngoài, người đi câu ếch làm phao bằng bông hoa đỏ, giỏ thủng đáy lại treo ngược lên... càng làm cho không khí vui nhộn hơn.

Trong quá trình diễn trò thi thoảng 3 “Bụt” ở giữa vòng tròn được 2 người phụ nữ đem xôi, trầu bón cho nhưng chỉ bón nhử mà thôi. (Phải chăng đây là một tục hèm của lễ “Cầu Đinh”). Khi các tích trò diễn ra liên tục khoảng 40-45 phút, nghĩa là nguyên liệu đồng trong nồi nấu đã đến nóng chảy, ông thợ đúc dùng gáo múc đồng trong nồi đổ vào các “Bụt” (chính xác hơn là các “khuôn Bụt”), sau đó dùng “kìm” (1 thanh tre tươi to bản bẻ gập) xoay Bụt (cho rời khỏi khuôn) cũng theo chiều ngược với chiều kim đồng hồ, đồng thời, nhà Sư xuất hiện gieo quẻ xin âm dương, khi được, ông thợ Đúc lập tức cầm 3 chiếc chiếu trùm  lên “Bụt” ném ra ngoài và đập vỡ nồi nấu đồng. Đồng thời 3 thanh niên làm khuôn Bụt nhanh chóng chạy biến ra ngoài và kết thúc trò diễn, nhân dân reo hò tranh nhau cướp chiếu, 3 chiếc chiếu sẽ được cướp giật thực sự từ tay người này đến tay người khác, đến khi rách nát tả tơi, hoặc có người khoẻ mạnh hơn người, cướp được và tránh không để ai đuổi cướp lại được, nhất là chiếc chiếu giữa có bó mạ xanh ban đầu thì chắc chắn năm đó vợ chồng họ sẽ sinh con trai. Vì vậy Hội rất đông và cũng có nhiều người ở rất xa mà chưa sinh quý tử đến dự Hội hy vọng cướp được dù một mảnh chiếu rách là cũng đạt nguyện vọng. (Một điều lạ là mặc dù lễ hội năm nào cũng tổ chức, trong đám đông tranh cướp huyên náo như vậy nhưng chưa hề xảy ra thương tích!).

Buổi chiều, các trò chơi phụ trợ được tổ chức đến tối gồm thi đấu bóng chuyền, cờ tướng...

Như vậy có thể thấy:

Lễ Hội “Đúc Bụt” mùng 8 tháng Giêng ở Phù Liễn (xã Đồng Tĩnh) là một hình thức văn hoá dân gian truyền thống tồn tại và phát huy cho đến nay, nhằm ôn lại một truyền tích đẹp về “Đức Bà” (Ngọc Kinh công chúa), cùng nhân dân hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, đánh đuổi Tô Định - đại diện cho thế lực xâm lược, đô hộ của Nhà Hán ở thế kỷ đầu Công nguyên; đồng thời có thể thấy, trong cuộc sống của một cộng đồng, không thể thiếu sự phối hợp, dung hoà của những ngành nghề sơ khai của một nền văn minh lúa nước là nông nghiệp, thủ công nghiệp, trao đổi hàng hoá và dần phát triển trở thành những nghề truyền thống, trong sự phân công lao động ở những giai đoạn phát triển tiếp theo của xã hội.

Trong suốt quá trình diễn tích trò của hội “Đúc Bụt” mọi sự vận hành đều được diễn ra trong một vòng tròn khép kín theo chiều ngược với chiều kim đồng hồ (mà theo các cụ già trong làng kể lại thì từ xưa tới nay vẫn thực hiện như thế, không hiểu vì sao nhưng không ai dám lên ý kiến thay đổi cả).

Điều này dễ gợi một sự liên tưởng tới cách bố trí các hoa văn trên trống đồng cổ. Cũng là các mô típ trang trí hoa văn lên các cảnh sinh hoạt trong đời sống, lễ hội của người Việt cổ, được hoá trang (hay mô phỏng) thành những hình chim, thú.v.v... hay cách điệu hoá và cũng đều xoay quanh những hình tròn đồng tâm ngược chiều kim đồng hồ.

Thêm vào đó, trong địa bàn xã Đồng Tĩnh hiện nay rải rác, nhân dân cũng có và phát hiện một số công cụ bằng đá mài như: rìu đá, bàn đá và hiện vật bằng đồng. Có niên đại vào khoảng đầu công nguyên (thuộc giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên muộn). Vậy thì phải chăng hội “Đúc Bụt” ở Phù Liễu muốn mô phỏng một nghề tuy mới ra đời nhưng đóng vai trò quan trọng trong đời sống. Nghề Đúc Đồng - các sản phẩm của nghề này sẽ dần thay cho các công cụ đá có vai trò như là một yếu tố quyết định để làm thay đổi một hình thái sản xuất trong lịch sử loài người. Và nếu có thêm được những cơ sở khoa học đáng tin cậy cho điều giả định này, thì nên chăng thời gian tới đây, các cơ quan hữu trách, các nhà nghiên cứu có thể ưu tiên hơn về mọi mặt để khai thác thêm , khẳng định những gì có thể khẳng định nhằm gìn giữ được kho tàng văn hoá phi vật thể của tỉnh nhà.

Quan niệm ngày khai xuân, cả làng mở hội vui vẻ cầu mong cho vạn vật sinh sôi nảy nở, mùa màng bôi thu, giống nòi phát triển, một quan niệm phồn thực là quan niệm đẹp và biện chứng của cư dân nông nghiệp thể hiện ở việc đặt lên chiếc chiếu giữa một bó mạ xanh, tục cướp chiếu được diễn ra rất nhiệt tình, thậm chí rất quyết liệt, cách bón trầu, xôi nhử của 2 phụ nữ bón cho “khuôn Bụt”... và qua kinh nghiệm lâu đời của nhân dân địa phương thì hình thức “cầu Đinh” ở lễ hội này khá điển hình và cũng rất hiệu nghiệm.

Song song và phụ trợ cho tích truyện “Đúc Bụt” trong lễ hội cũng diễn ra các trò hài, các cuộc thi đấu thể thao cờ tướng nhằm rèn trí, nâng cao thể lực, sức khoẻ, tạo thêm sự vui vẻ phấn chấn trong lao động, sản xuất, tất cả đã tạo nên phẩm chất đẹp của người Việt và trở thành bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam.

 

ST

 

Tệp đính kèm