Tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ vùng đồng bằng Yên Lạc, trên khu đất rộng cao ráo, Đền Thính dường như tách biệt khỏi không khí sầm uất của trung tâm thị trấn Yên Lạc. Xa xa, bao quanh Đền là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Từ trung tâm huyện Yên Lạc, du khách theo con đường trải nhựa chừng 300m sẽ đến ngay được khu Đền.
![](/upload/2017/PHOTO/THANG2/28/THANG-CANH.jpg)
Một khu vườn cây um tùm quanh năm xanh tết, những cành cây vươn dài, tán lá xòe ra như bàn tay khổng lồ ôm lấy mái đền cổ kính, uy linh, hương lúa, hương ngô ùa vào đền quyện lẫn khói hương trầm ngan ngát. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo, cổ xưa.
Nhân dân Xứ Đoài lập nên 5 cung để thờ Thánh Tản, một trong tứ bất tử trong tâm thức của người Việt, đó là: Đông Cung, Tây Cung, Nam Cung và Trung Cung đều thuộc đất Hà Tây, riêng Đền Thính thuộc đất Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc nên gọi là Bắc Cung Thượng. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ. Đền thờ đức thánh Tản Viên nên gọi là Đền Thánh, dân gian gọi chếch đi là Đền Thính. Đền dựng trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ngài đã nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá. Đân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân chỉ thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là Đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dạy dân làm thịt lợn với thính gạo nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Lịch sử đã ghi nhận nhiều lần tu sửa Đền. Năm Thành Thái thứ 13 (1902) triều Nguyễn, quan huyện Yên Lạc là Lưu Đình Dương vời nhà sư Tăng Ất đứng ra xây dựng hậu cung đền, năm Duy Tân thứ 5 (1911) dựng thêm lầu chuông và lầu trống , đến năm Khải Định thứ 2 (1917) Đền được mở rộng về phía trước thêm 7 gian tiền tế và đến năm Khải Định thứ 6 được xây cổng, lát sân, dựng nhà hành lang. Như vậy, trong khoảng 20 năm, việc xây dựng mới hoàn thành cho cấu trúc ngôi Đền hoàn chỉnh như hiện nay. Việc xây dựng và tu bổ ngôi Đền được ghi rõ trên tấm bia dựng năm Khai Định thứ 8 và bài văn của nhà sư Tăng Ất tại tấm bia dựng năm 1936. Cả hai tấm bia được dựng trước cổng Đền và vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Đến có rất nhiều giá trị về nghệ thuật kiến trúc. Cổng Đền được cấu tạo như kiểu tam quan, cổng vào được xây dựng kiểu 2 tầng 8 mái, toà tiền tế cũng được nâng mái theo lối chồng diêm, 2 nhà hành lang tả, hữu nằm nối theo lầu chuông, trống như 2 thân rồng chầu, tất cả đã tạo nên bố cục không gian kiến trúc tổng thể khá sinh động. Từ tiền tế trở vào, hậu cung gồm 7 gian, 9 cửa thờ đều có cửa võng đục chạm cầu kỳ, sơn son thếp vàng với các đề tài tứ linh long - ly - quy - phượng hoặc tứ quý thông - cúc - trúc - đào Mỗi lớp cửa là một tác phẩm điêu khắc độc đáo, mang phong vị riêng, cùng với kỹ thuật chạm lộng tinh xảo đến từng chi tiết thể hiện sự tài hoa nghề chạm gỗ dân gian nửa đầu thế kỷ XIX. Còn có các bức chạm ở cốn mê, cốn nách, các bức phù điêu bằng gỗ khắc hoạ hình tượng văn quan, võ tướng, là những tác phẩm nghệ thuật quý hiếm và đặc biệt của di tích. Hai bức hình hoạ trên tường toà tiền tế cũng là những tác phẩm nghệ thuật hội hoạ đặc sắc. Hằng năm, lễ hội Đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian.
Sáng mùng 6 tháng Giêng, nhân dân nô nức hướng về đền chính để làm lễ khai xuân. Việc chuẩn bị cho lễ tế khá công phu. Trước tiên là chọn những người đủ tiêu chuẩn tham gia tế lễ và đóng các vai chính trong đám rước. Thông thường có từ 8 đến 14 cụ ông được chọn làm thành viên trong đội tế khai xuân, tế dâng lễ, tế ngày sinh, hóa của đức Thánh Tản. Một cụ hội đủ các điều kiện tốt nhất sẽ được chọn làm chủ tế, 2 cụ làm Đông xướng và Tây xướng; 2 cụ bồi tế, 4 cụ tiến nước đèn, nhang, hoa, rượn, một cụ đọc chúc văn; 6 cụ chấp kích hai bên canh gác và xua đuổi tà ma cho cuộc tế. Những công việc này đều do người dân Tam Hồng bầu chọn, cắt cử dưới sự điều hành của Ban tổ chức lễ hội.
Ban tế gồm 2 đội, một đội nam và một đội nữ, mỗi đội thường gồm 21 người, trong đó có một người chủ tế. Người chủ tế phải là người có thẻ vinh tử vượng, phu phụ song toàn, tử tôn hưng thịnh và khoẻ mạnh. Song song với việc chuẩn bị trên thì việc chuẩn bị đồ lễ vật cũng được tiến hành. Công việc chuẩn bị xong cũng là lúc lễ hội Đền Thính được diễn ra. Sau lễ khai mạc của Ban tổ chức lễ hội, lần lượt từng thôn trong và ngoài xã, theo lịch đã đăng ký tiến hành lễ rước từ Đình thờ của làng mình lên Đền Thính. Khi đám rước của một thôn đến đền, cuộc tế lễ bắt đầu. Nội dung văn tế kể về công lao của Thánh đối với dân làng; mời Thánh về dự hội với dân làng, báo cáo thành tích của làng mình trong năm qua và cầu xin thánh phù hộ cho dân một năm mới làm ăn thịnh vượng, nhà nhà yên bình, làng xóm yên vui, người người mạnh giỏi. Hội Đền Thính ngày càng náo nhiệt, vui vẻ hơn khi các trò chơi dân gian của ngày hội được phục dựng. Những trai làng cường tráng để trần đóng khố hăng hái vào sới vật, những nữ tú khăn áo sênh sang tươi cười bước đến đu quay; những cụ già râu tóc bạc phơ bên những chú gà chọi đỏ màu lửa; nhưng thu hút nhiều người tham gia nhất vẫn là những bàn cờ tướng và những trận cờ người. Nam thanh, nữ tú rộn rã với bóng chuyền, cầu lông; các bà, các chị cười nghiêng nón với những trò đập niêu đất, ném vòng, kéo co … Hàng quán rộn rã chào mời, du khách đắm mình trong ngày hội, tiếng hò reo nô nức, cảnh vật thật rộn rã, thái bình. Cứ mỗi độ xuân về, Đền Thính lại rực sắc cờ hoa, lòng người lại nô nức khi mùa hội đến. Về Yên Lạc hôm nay, du khách dừng chân bên ngôi đền cổ để tận hưởng sự giao hòa sắc xuân của đất trời, ấm lòng trong mối cộng cảm một tinh thần thuần Việt.
ST