Sỏi đường tiết niệu có thể gây tắc hệ thống tiết niệu, gây nhiễm trùng làm tổn thương chức năng của thận, đặc biệt ở người tuổi cao.
Sỏi tiết niệu là một bệnh gặp chủ yếu ngoài tuổi trung niên, nam giới mắc nhiều hơn nữ giới và là bệnh hay tái phát.
Những triệu chứng chính
Đường tiết niệu gồm thận (2 quả thận), niệu quản (2 niệu quản), bàng quang và niệu đạo. Sỏi đường tiết niệu có thể xảy ra ở bất kỳ bộ phận nào của đường tiết niệu. Bệnh có thể diễn biến dữ dội hoặc âm thầm, tiềm tàng, có trường hợp tình cờ phát hiện bị sỏi thận, sỏi niệu quản hoặc sỏi bàng quang nhân chụp phim hoặc siêu âm ổ bụng vì một bệnh khác, hoặc một lý do khác. Tuy vậy, phần lớn sỏi đường tiết niệu có biểu hiện lâm sàng khá phong phú. Triệu chứng thường gặp nhất là đau bụng, đau, mỏi vùng thắt lưng, nhất là vùng bụng phía phía bộ phận tiết niệu có sỏi.
Đau bụng có thể kèm theo buồn nôn hoặc nôn, trướng bụng. Đau vùng thắt lưng có khi âm ỉ suốt ngày, suốt tháng nhưng có khi cơn đau dữ dội mà thường gọi là cơn đau quặn thận (đau lăn lộn không thể ngồi, nằm yên được).
Trong các cơn đau quặn thận thường do sỏi tắc ở đài, bể thận hoặc sỏi đã di chuyển xuống niệu quản, nằm ở đó hoặc xuống bàng quang. Cơn đau quặn thận xuất phát từ vùng thắt lưng, lan dọc theo đường đi của niệu quản đến vùng bẹn và vùng sinh dục. Kèm theo cơn đau là đái buốt, đái rắt, đái són. Nước tiểu trong các cơn đau thường đục, đỏ, có khi có máu mà mắt thường có thể nhìn thấy được (gọi là đái máu đại thể ), nhưng cũng có khi đái ra máu nhưng mắt thường không nhìn thấy được (đái máu vi thể), phải xét nghiệm nước tiểu, soi kinh hiển vi mới thấy có hồng cầu. Trước hoặc trong cơn đau có thể có sốt cao, rét run và nước tiểu đục (do bị nhiễm khuẩn gây viêm đài thận, bể thận hoặc viêm bàng quang hoặc do cặn thận).
Tuy vậy, cũng có những trường hợp sỏi tiết niệu có nhiễm khuẩn nhưng bệnh nhân không sốt hoặc sốt nhẹ nhưng nước tiểu luôn luôn đục, thường gặp ở người cao tuổi, sức đề kháng kém (nằm lâu, ít vận động), uống ít nước. Nuớc tiểu đục có thể là toàn bãi hoặc có thể chỉ có ở đầu bãi hoặc cuối bãi. Nếu có tổn thương ở thận (đài, bể thận) thì thường có phù ở mi mắt hoặc có phù ở mắt cá chân (ấn lõm).
Để chẩn đoán sỏi tiết niệu, ngoài khám lâm sàng, dựa vào tiền sử bệnh thì cần chụp X-quang hệ tiết niệu, siêu âm luôn được áp dụng. Tuy vậy, có hơn 10% sỏi tiết niệu thuộc loại không cản quang và vì vậy khi chụp X-quang hệ tiết niệu không chuẩn bị rất có thể không phát hiện thấy sỏi. Do đó, khi có các triệu chứng lâm sàng nghi là sỏi đường tiết niệu, chụp X-quang không thấy sỏi thì chưa nên kết luận là không có sỏi tiết niệu. Để khắc phục tình trạng này thì nên chụp niệu đồ tĩnh mạch sẽ cho thấy hình ảnh sỏi tiết niệu hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc cộng hưởng từ (MRI) để phát hiện các loại sỏi nhỏ.
Hiện nay, siêu âm đang được ứng dụng khá rộng rãi giúp đáng kể cho việc xác định sỏi đường tiết niệu. Ưu điểm của phương pháp này là nhanh cho biết được số lượng, kích thước và vị trí của sỏi, và biết được tình trạng đường tiết niệu (đài bể thận, niệu quản giãn hay không, niêm mạc bàng quang có phù nề hay không...).
Xét nghiệm nước tiểu cho biết một số thông số liên quan đến sỏi đường tiết niệu, sỏi thuộc loại gì (sỏi canxi oxalat hay hay canxi phốt phát hay sỏi amoni-magie hay sỏi axít uric...). Xác định được trong nước tiểu có hồng cầu, bạch cầu, trụ niệu hay trụ hạt? Trong những trường hợp cần thiết thì nuôi cấy nước tiểu để xác định có bị nhiễm khuẩn hay không và vi khuẩn gây bệnh thuộc loại gì, nhạy cảm với loại kháng sinh nào nhất.
Một số bệnh dễ chẩn đoán nhầm với bệnh sỏi đường tiết niệu
Trong các cơn đau quặn thận cần chẩn đoán với bệnh tắc ruột, sỏi đường mật, sỏi tụy, viêm tụy cấp. Nếu cơn đau bụng về phía bên hố chậu phải (thường gặp trong sỏi niệu quản phải khoảng 1/3 dưới, nơi niệu quản bị gấp khúc), có sốt nhẹ, nôn hoặc buồn nôn cần lưu ý đến bệnh của ruột thừa. Đau vùng hố chậu phải còn có thể viêm đại tràng (nhất là viêm đại tràng co thắt, đại tràng xích ma); ở phụ nữ có thể là do viêm phần phụ hoặc u nang buồng trứng đang bị xoắn hoặc đã vỡ hoặc có thể chửa ngoài dạ con (phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có quan hệ tình dục không dùng biện pháp tránh thai). Biến chứng của sỏi tiết niệu khá phức tạp, nhẹ thì đau thắt lưng, rối loạn tiểu tiện (đái rắt, són), nặng hơn là sỏi từ thận rơi xuống niệu quản làm đau dữ dội, làm tổn thương niệu quản gây chảy máu hoặc bị nhiễm trùng gây viêm thận ứ mủ. Sỏi niệu quản có thể làm ử đọng nước tiểu gây dãn đài bể thận gây suy thận. Suy thận là bệnh điều trị gặp không ít khó khăn và làm tăng huyết áp, tăng ure máu rất nguy hiểm.
Đường tiết niệu
Nguyên tắc điều trị và phòng bệnh
Khi có đau vùng thắt lưng hoặc có kèm sốt, đái rắt, buốt, nước tiểu đục hoặc đỏ thì nên đi khám bệnh càng sớm càng tốt để được chẩn đoán và điều trị kịp thời, nếu để muộn có thể gây biến chứng. Đi khám bệnh để được chẩn đoán chính xác, có hướng điều trị và tư vấn cho người bệnh tránh để bị bệnh nặng. Bác sĩ khám bệnh sẽ có hướng điều trị thích hợp cho từng loại sỏi tiết niệu và tùy lứa tuổi, sức khỏe của từng người bệnh với phương châm là làm sao hết sỏi nhưng vẫn giữ được bộ phận tiết niệu và chức năng của hệ tiết niệu không bị ảnh hưởng là điều lý tưởng nhất. Bởi vì, giải quyết sỏi đường tiết niệu cũng có nhiều phương pháp (điều trị nội khoa, tán sỏi, mổ nội soi, mổ phanh).
Khi bị sỏi tiết niệu, cần uống nhiều nước từ 1,5 - 2,0 lít, kết hợp với dùng thuốc nhằm đào thải sỏi ra ngoài bằng đường tiểu. Tránh để nhiễm trùng đường tiết niệu, nhất là nữ giới, do cấu tạo sinh lý đặc biệt của lỗ đái rất dễ gây nhiễm trùng đường tiết niệu ngược dòng. Vì vậy, nên vệ sinh sạch sẽ bộ phận sinh dục ngoài hàng ngày hoặc đã điều trị hết sỏi thì nên chọn chế độ ăn hợp lý, hạn chế ăn các loại thức ăn giàu canxi (tôm, cua, ốc). Những người bệnh bị gút nên định kỳ kiểm tra đường tiết niệu như chụp X-quang, xét nghiệm nước tiểu và uống thuốc điều trị gút theo đơn của bác sĩ khám bệnh một cách nghiêm túc.
TTƯT.PGS.TS. BÙI KHẮC HẬU
Theo suckhoedoisong.vn