Đối với đồng bào dân tộc Dao Quần Chẹt ở xã Lãng Công (Sông Lô), Tết nhảy không chỉ là ngày lễ tạ ơn tổ tiên, cầu xin tổ tiên phù hộ cho mùa màng bội thu, mà là còn dịp gia đình sum họp, làng bản quây quần bên mâm cơm ấm, chén rượu nồng, cùng nhau kể chuyện ngày Xuân.
Các thầy cúng, thầy đồng phải thực hiện nhiều nghi lễ trong Tết nhảy. Ảnh: Trà Hương
Nhiều lần lên Lãng Công, tôi đều đề xuất với Phó Chủ tịch UBND xã Lê Hồng Công, rằng khi nào địa phương có Tết nhảy thì nhớ nhắn giùm tôi. Đến ngày diễn ra Tết nhảy, tôi không những được đồng chí Phó Chủ tịch UBND xã mời lên xem, mà còn được bà con dân tộc Dao nơi đây đón tiếp nhiệt tình, cởi mở.
Mấy năm rồi ở Lãng Công mới có Tết nhảy, vì vậy, mà khi biết sắp được tận mắt chứng kiến trọn vẹn lễ hội Tết nhảy khiến tôi cảm thấy vô cùng hào hứng. Tết nhảy của gia đình ông Dương Xuân Hưởng được tổ chức trong 3 ngày (ngày 13, 14 và 15/12 âm lịch). Vào những ngày này, không khí trong gia đình ông Hưởng trở nên nhộn nhịp hơn. Cả dân bản đến ăn thịt, uống rượu, nhảy múa và giúp đỡ gia chủ việc nấu cỗ, chuẩn bị lễ lạt.
Ông Hưởng cho biết, hơn 90 năm rồi, dòng họ ông mới tổ chức Tết nhảy. Đây là nghi lễ có ý nghĩa lớn đối với gia đình, dòng họ. Sở dĩ rất lâu rồi Tết nhảy mới được gia đình tổ chức lại, một phần là do những quy định chặt chẽ của nghi lễ truyền thống, một phần do yếu tố kinh tế.
Trong 3 ngày diễn ra Tết nhảy, gia đình ông Hưởng đã làm thịt 6 con lợn (ước khoảng hơn 5 tạ thịt), 15 con gà, chưa kể các loại thực phẩm khác. Theo phong tục, trong Tết nhảy cần có tranh, vì vậy, nhiều gia đình chưa có tranh phải mua bộ tranh thờ trị giá hơn 10 triệu đồng. Gia đình ông Hưởng có bộ tranh thờ có “niên đại” hơn trăm năm được gia đình cất giữ cẩn thận, hiện vẫn như mới. Bộ tranh này được các thầy cúng dùng cho việc cúng tế trong Tết nhảy.
Trong suốt 3 ngày diễn ra Tết nhảy, các thầy cúng và gia chủ thường ở trong nhà để thực hiện các nghi lễ cúng tế. Bên ngoài, người dân trong bản cùng một số anh em, họ hàng của gia chủ chuẩn bị lễ lạt, mổ lợn, nấu cỗ...
Lễ cúng của người Dao khá đơn giản, bao gồm thịt, rượu để dâng lên tổ tiên, sau đó, những thứ này được mang ra thiết đãi dân làng. Các mâm cỗ được sắp theo lối ẩm thực truyền thống của người Dao với món chính là thịt lợn xếp thành mô trên lá chuối, ở giữa có bát chuối thái ăn kèm, nhắm với rượu trắng. Những người đến tham dự buổi lễ ăn uống, nói chuyện vui vẻ nhưng tuyệt đối không được say rượu và phải giữ thái độ văn minh, lịch sự.
Theo tục lệ người Dao, Tết nhảy chỉ được làm ở “nhà cái” (con trưởng, trưởng họ). Ông Dương Xuân Hưởng là con trưởng của cụ Nguyễn Thị Cẩn. Cụ Cẩn năm nay 87 tuổi nhưng rất minh mẫn. Cụ là người Kinh lấy chồng dân tộc Dao và gắn bó với dân tộc Dao gần như cả cuộc đời. Bởi vậy, cụ rất thông thạo những nghi lễ truyền thống của người Dao ở địa phương.
Cụ cho biết, trước khi diễn ra Tết nhảy, gia đình sẽ thông báo cho các con, cháu ở xa được biết để sắp xếp thời gian về dự lễ. Do đó, Tết nhảy của người Dao là dịp để con cháu trong gia đình quây quần, tụ họp. Nếu các con, cháu có bạn bè, người quen có thể mời về nhà để tham dự Tết nhảy cùng gia đình.
Nói về nguồn gốc của Tết nhảy, cụ Cẩn cho biết, theo truyền thuyết kể lại, trước kia, con cháu 12 họ Dao đi di cư vượt biển tìm đường sống, sau nhiều tháng lênh đênh trên biển mà không tìm thấy bờ, bất ngờ, đoàn thuyền của các họ Dao gặp bão lớn khiến thuyền nghiêng, sóng lật, tính mạng của các họ Dao bị đe dọa.
Giữa lúc nguy cấp, các họ Dao khấn cầu xin Bàn Vương và tổ tiên giúp đỡ vượt qua cơn hoạn nạn và hứa sẽ làm Tết nhảy để tạ ơn. Lời cầu linh ứng, các họ Dao thoát nạn, thuyền vào bờ an toàn. Từ đó về sau, các họ người Dao tổ chức Tết nhảy để tạ ơn tổ tiên; cầu xin tổ tiên cứu giúp khỏi những rủi ro, trắc trở trong cuộc sống; giải trừ những oan trái, bất hạnh và ban cho những điều may mắn, hạnh phúc.
Thầy cúng Dương Trường Sinh cho biết, trước khi làm Tết nhảy, các gia đình cần phải sắm một bộ tranh thờ. Tranh mới mua về phải làm lễ Khai Quang mới chính thức được công nhận, sử dụng trong lễ nghi, thờ cúng.
Sau lễ Khai Quang, gia chủ còn phải làm lễ Lập Tĩnh thì mới được phép làm Tết nhảy. Tết nhảy gồm 3 phần chính là khai lễ, chính lễ và lễ tiễn đưa. Trong phần khai lễ, các thầy cúng tiến hành nghi lễ mở và treo các bộ tranh thờ của người Dao là bộ Tam thanh, Hành sư xung quanh gian chính của ngôi nhà; tiếp đó là bày biện lễ vật, khấn xin Bàn Vương, tổ tiên cho phép làm Tết nhảy và mời các ngài về dự lễ.
Thầy cúng và các thanh niên Dao thực hiện điệu múa đưa đường, bắc cầu để đón thần linh, tổ tiên về ăn Tết. Phần chính lễ, thầy cúng, gia chủ và những người đàn ông Dao sử dụng con dao găm bằng gỗ múa “ra binh vào tướng”, múa phát nương (còn gọi là múa được mùa), múa bắt ba ba và gõ chiêng, trống rộn ràng.
Các động tác nhảy, quay, bật, nhún, tung người được những người đàn ông Dao thực hiện một cách chính xác theo các bước nhảy của thầy đồng. Tiếng hát hòa cùng tiếng kèn, tiếng trống, tiếng chiêng dồn dập, náo nức. Cuối cùng, thầy cúng làm lễ cúng tạ trước bàn thờ tổ tiên của gia chủ để kết thúc Tết nhảy. Gia chủ làm lễ hóa vàng để tiễn đưa hương hồn tổ tiên trở về thế giới bên kia.
Trong Tết nhảy, các thầy cúng trình diễn những bài hát nói, điệu múa cầu xin mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; tái hiện, ca ngợi quá trình lao động, chiến đấu chống giặc, bảo vệ quê hương của các bậc tiền nhân.
Theo Phó Chủ tịch UBND xã Lê Hồng Công, Tết nhảy không chỉ là dịp mua vui cho “ông bà ông vải” mà còn mang ý nghĩa giáo dục thế hệ con cháu biết quý trọng truyền thống yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, biết hy sinh vì cuộc sống cộng đồng. Ngày nay, Tết nhảy vẫn được đồng bào dân tộc Dao ở Lãng Công gìn giữ, phát huy, trở thành phong tục truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Dao.
Theo Bạch Nga/baovinhphuc