Từ nhiều thế kỷ, chuột luôn theo bước chân người đến định cư và sinh sống ở nhiều vùng đất, nhiều châu lục khác nhau. Nói cách khác, ở đâu có sự sống của loài người, ở đó có chuột. Theo các nhà khoa học, chuột có nhiều loài nhất trong nhóm thú với khoảng 3.000 loài, 30 họ. Nhưng quan niệm trên cũng không hẳn là thuyết phục nếu chúng ta biết rằng có một số loài chuột quý, hiếm chỉ có mặt ở một số vùng đất nhất định và đặc biệt, phần lớn trong số này phân bố ở Australia.
Chuột đuôi dài đã được in hình trên tem bưu chính của Australia.
Loài chuột có đuôi dài nhất
Đây là loài chỉ có mặt ở miền Tây Bắc Australia và có tên khoa học là Sminthopsis longicaudata. Chúng xuất hiện ở những vùng núi đá. Chúng đạt chiều dài tối đa 10cm (đối với cá thể đực) và 9cm đối với cá thể cái. Đặc điểm của loài chuột này là một cái đuôi dài hơn hai lần chiều dài của cơ thể. Ở con đực chiều dài đuôi dao động từ 20-21cm và ở con cái chiều dài đuôi là từ 18-20cm.
Đuôi hầu hết có vảy với một vài sợi lông ngắn; phần đuôi có lông dài hơn tạo thành một đầu giống như bàn chải. Lông trên phần lưng của cơ thể có màu xám, trong khi phần dưới có màu kem nhạt đến màu trắng. Chân và bàn chân có màu trắng; bàn chân thanh mảnh và có miếng đệm hoặc hạt. Cái đầu có phần dẹt với hình mõm dài. Đây là loài có đuôi dài nhất thế giới (so với chiều dài cơ thể thì đuôi dài gấp hai lần). Do đó, có tên thông thường là chuột đuôi dài và loài này thuộc Phụ lục I CITES – Nghiêm cấm buôn bán quốc tế vì mục đích thương mại. Do tính chất quý, hiếm như vậy nên chuột đuôi dài đã được in hình trên tem bưu chính của Australia.
Chuột Dunnart – loài có tuổi thọ ngắn nhất
Chuột Dunnart có tên khoa học là Sminthopsis psammophila. Đây cũng là loài bản địa của miền Tây Australia và chỉ còn khoảng 5.000 – 10.000 cá thể. Với vòng đời sống từ 1-2 năm, chuột Dunnart là loài chuột có tuổi thọ ngắn nhất thế giới. Do đó, loài chuột này được đưa vào Phụ lục I CITES – Nghiêm cấm buôn bán quốc tế vì mục đích thương mại ngay từ khi công ước CITES có hiệu lực (1975).
Kangaru cây – loài có trọng lượng lớn nhất
Kangaru cây có tên khoa học là Dendrolagus inustus và thuộc Phụ lục II CITES – Hạn chế buôn bán quốc tế vì mục đích thương mại. Loài Kangaru cây chỉ có phân bố ở Indonesia và Papua New Guinea. Đây là một trong những loài chuột túi có chiều dài ở mức trung bình (khoảng 75–90 cm) với trọng lượng từ khoảng 8 đến 15 kg.
Chúng có đầu nhỏ, với mũi phẳng, cánh tay mạnh mẽ để leo trèo, chân sau dài và bàn chân lớn cho một con vật sống trên cây. Các ngón chân có móng vuốt mạnh mẽ và ngón chân thứ tư dài hơn các ngón khác. Loài này đạt tuổi thọ 10 năm.
Kangaru cây đen – loài sống ở độ cao lớn nhất
Kangaru cây đen (tên khoa học là Dendrolagus ursinus) thuộc Phụ lục II CITES và chỉ có phân bố ở Indonesia. Loài này có chiều dài đầu đến thân 50–82 cm với duôi dài 40–94 cm và cân nặng lên đến 8 kg. Trên lưng màu đen bóng trong khi phần dưới có màu nâu vàng. Lông ở cổ và họng màu hơi trắng, và khuôn mặt có màu nâu với má trắng hoặc đỏ. Tai nổi bật, dài và có búi. Lông dài xoắn trên vai, một mô hình được cho là giúp mang nước mưa dư thừa ra khỏi đầu.
So với những con chuột túi trên cạn, chân tay ngắn, chân rộng, đế được làm nhám và móng vuốt cong để leo cây. Nó xuất hiện trong các khu rừng nhiệt đới ở độ cao từ 1.000 đến 2.500 m. Tuổi thọ đạt khoảng 10 năm.
Kangaru chân to – loài có tuổi thọ lớn nhất
Kangaru chân to (tên khoa học là Lagorchestes hirsutus) thuộc Phụ lục I CITES và phân bố ở Australia. Có tuổi thọ đạt 13,2 năm. Đây là loài sống về đêm, sống đơn độc và có xu hướng tránh đối đầu. Quần thể của Kanguru chân to đang dần suy giảm do sự xuất hiện của mèo nhà và cáo lửa.
Thực chất thì Kanguru chân to có hình dáng giống thỏ hơn. Tuy nhiên loài chuột túi này có chân sau to hơn chân thỏ rừng và thân hình mỏng hơn thỏ rừng. Lông của chúng dài, mềm và dày. Bụng và chân sau của chúng có màu cát, màu da bò trong khi lưng và đầu có màu xám. Chúng có đôi tai dài, đôi mắt đen lớn, râu ria ngắn và bàn chân màu sẫm hơn.
Con đực và con cái có màu giống hệt nhau, con cái thường có kích thước lớn hơn. Con cái dao động từ 0,78 đến 1,9 kg trong khi con đực dao động từ 1,24 đến 1,8 kg. Chiều dài từ chóp mũi đến gốc đuôi của con cái là 36 đến 39 cm, và chiều dài đuôi là 24 đến 30,5 cm. Chiều dài đầu/ thân của con đực là 31 đến 36 cm, và chiều dài đuôi là 26 đến 27 cm. Cả hai đều đứng cao khoảng 30 cm. Đây là loài có vai trò quan trọng trong hệ sinh thái: ăn cỏ, ăn nhiều loài thực vật và có thể đóng vai trò thay đổi sự phân bố và phong phú của các loài bằng cách gặm cỏ, tha mồi và đào hang.
Kangaru chân vuốt – loài có vuốt ở đuôi
Kangaru chân vuốt (Onychogalea fraenata) thuộc Phụ lục I CITES với số lượng trong tự nhiên chỉ còn rất ít từ 800-1.100 cá thể (chỉ có phân bố ở Australia). Đây là loài Kanguru với đặc điểm nổi bật: dòng "cầu nối" màu trắng bắt đầu ở trung tâm của cổ và đi quanh vai và kết thúc ở cẳng tay ở mỗi bên. Một dải màu đen chạy dọc trên toàn bộ cơ thể.
Con đực nặng từ 5 đến 8 kg, trong khi con cái nặng từ 4 đến 5 kg. Chiều dài đầu và thân của loài này là 430 đến 700 mm, với phần đuôi đóng góp thêm 360 đến 730 mm vào tổng chiều dài. Loài này còn có đuôi với một phần nhỏ như móng tay ở cuối đuôi và được phủ bằng những sợi lông. Chúng có tuổi thọ khoảng 5,5 năm.
Chuột chân lợn mũi dài – loài có mũi dài nhất và trọng lượng nhỏ nhất
Chuột chân lợn mũi dài Perameles bougainville thuộc Phụ lục I CITES và chỉ có phân bố ở Úc (1.000 – 5.000 cá thể). Đây là loài chuột nhỏ nhất thế giới với trọng lượng tối đa khoảng 220g. Chúng có bộ lông màu nâu xám nhạt, có hai hoặc ba vạch tối chạy dọc thân sau. Cằm, dưới và chân có màu trắng. Tuổi thọ đạt từ 1,5 đến 5,8 năm.
Chuột tai thỏ châu Úc – loài có đôi tai lớn nhất
Chuột tai thỏ châu Úc (Macrotis lagotis) là loài thuộc Phụ lục I CITES và có phân bố trong các khu vực khô cằn ở Australia. Với số lượng khoảng 9.000 cá thể trong tự nhiên. Chúng được gọi là chuột tai thỏ do có đôi tai lớn, tương đối không có lông, giống như thỏ và mõm nhọn dài với rung cảm giác và mũi hồng không có lông. Bộ lông của chúng mềm, mượt và có màu xám xanh với sự pha trộn của lông tơ trên phần lớn cơ thể. Bụng được bao phủ trong lông trắng hoặc kem. Phần đầu của đuôi có màu xám xanh giống như cơ thể với phần còn lại là màu đen và 40% cuối cùng là màu trắng tinh khiết. Túi của con cái mở ra phía sau để tránh lấp đất khi con vật đang đào hang. Các chi trước mạnh mẽ và bao gồm ba chữ số có móng và hai chữ số không có móng. Các chi sau của hai chân lớn hơn mảnh khảnh và tương tự như của kanguru.
Thay vì nhảy lò cò, chuột tai thỏ dùng chân để phi nước đại quanh sa mạc. Lưỡi của chúng dài, dính và thon, giúp dễ dàng bắt mối. Con đực và con cái có hình dạng lưỡng hình giới tính, với khối lượng cơ thể của con đực gấp đôi con cái (800 đến 2.500 g đối với con đực so với 600 đến 1.100 g đối với con cái). Con đực cũng có trán rộng và răng nanh dài hơn. Đây là loài có tuổi thọ trung bình, khoảng 5 năm.
Chuột đất con-đi (Leporillus conditor) – loài vừa trở thành nguy cấp
Loài thuộc Phụ lục II CITES và có phân bố ở Australia (khoảng 3.000 – 4.000 cá thể tự nhiên). Chúng có bộ lông màu vàng nâu đến xám. Bụng của chúng có màu kem và bàn chân sau có những vệt trắng đặc biệt ở bề mặt trên. Răng cửa của chúng liên tục phát triển, cho phép chúng cắn nát các hạt cứng. Cá thể trưởng thành có thể dài tới 26 cm và nặng tới 450 g. Do số lượng còn ít trong tự nhiên nên Úc đã đề xuất đưa vào Phụ lục II CITES và chính thức có hiệu lực từ ngày 26-11-2019.
Chuột mùa xuân Alice (Pseudomys fieldi)
Đây cũng là loài chuột mới được đưa vào Phụ lục II CITES và chỉ có phân bố ở Úc (10.000 cá thể). Chuột mùa xuân Alice là một loài khá mạnh mẽ với bộ lông dài và xù xì đáng chú ý. Bộ lông của chúng có màu nâu sẫm phía trên và lông ở hai bên, và động vật có lớp lông màu trắng tinh khiết. Loài này có đuôi nhị sắc bao gồm màu xám ở trên và màu trắng bên dưới. Con trưởng thành có chiều dài cơ thể từ 80 - 115 mm và trọng lượng của chúng dao động từ 30 đến 61g, trung bình 45g. Chuột mùa xuân ăn tạp, với chế độ ăn đa dạng bao gồm các loài hoa, lá và thân cây thân thịt, cũng như nấm, côn trùng và nhện. Chúng có tuổi thọ từ 6-8 năm.
Chuột nước giả (Xeromys myoides)
Đây là loài chỉ có phân bố ở Australia và Papua New Guinea và thuộc Phụ lục II CITES kể từ ngày 26-11-2019. Do số lượng trong tự nhiên bị đe doạ tuyệt chủng (khoảng 5.000-50.000 cá thể). Chuột nước giả có đầu dài và dẹt rõ rệt với đôi mắt nhỏ và đôi tai ngắn, tròn. Những con chuột này chỉ sở hữu hai răng hàm ở mỗi bên hàm trên và hàm dưới. Răng cửa trên của chúng có màu vàng hoặc cam và răng cửa dưới có màu trắng. Chiều dài đầu và thân của chuột giả là 115-27mm. Chiều dài đuôi là 85-100mm và chiều dài chân sau là 23-26mm. Lông trên cơ thể nói chung là màu xám đen, dần dần hòa trộn vào mặt dưới màu trắng. Bộ lông này chống nước. Bàn tay, bàn chân và đuôi được bao phủ bởi những sợi lông trắng, mịn và bàn chân không có màng. Đuôi được thu nhỏ.
Theo BẢO TỒN/nhandan.com.vn