Lễ cầu an còn gọi là lễ múa kiếm (lống ma shá), diễn ra nhiều dịp trong năm như Tết Nguyên đán, vào nhà mới, kết thúc mùa vụ, đám cưới… để cầu thần linh cho mùa màng bội thu, dân bản ấm no, hạnh phúc.
Múa hát tại lễ cầu an của người Giáy xã Nậm Ban, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. (Nguồn: Báo Hà Giang)
Lễ cầu an - một trong những nghi lễ tiêu biểu, riêng có của cộng đồng dân tộc Giáy ở xã Nậm Ban, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang đã được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Xã Nậm Ban (Mèo Vạc) là địa bàn sinh sống của 7 dân tộc gồm Giáy, Mông, Tày, Cao Lan, Kinh, Dao và Pà Thẻn. Trong số đó, dân tộc Giáy chiếm 72%, sống tập trung thành làng nên vẫn bảo lưu được nhiều nét văn hóa truyền thống của dân tộc, trong đó có lễ cầu an.
Lễ cầu an còn gọi là lễ múa kiếm (lống ma shá), diễn ra nhiều dịp trong năm, như Tết Nguyên đán, vào nhà mới, khi kết thúc mùa vụ, đám cưới… để cầu thần linh mang lại cho đồng bào mùa màng bội thu, cây lúa dày hạt; dân bản ấm no, hạnh phúc.
Theo ông Lục Thanh Minh, thầy cúng của nghi lễ cầu an và nghệ nhân múa kiếm Nông Thanh Cú, xã Nậm Ban cho biết lễ cầu an có từ lâu đời được truyền qua nhiều thế hệ, các bài cúng được ghi chép trong sách cổ của những thầy cúng. Khởi nguồn của lễ cúng chính là tinh thần thượng võ, sự thôi thúc, cổ vũ cộng đồng cùng nhau đoàn kết, quyết tâm đấu tranh bảo vệ làng, bản.
Vào ngày tổ chức lễ cúng, các gia đình cử người tham gia thực hiện. Lễ cầu an không đặt nặng về hình thức cũng như các lễ vật dâng lên thần linh, thường chỉ mang tính chất tượng trưng thể hiện thành ý của người làm lễ. Khi dự định tổ chức lễ, trưởng thôn sẽ mời thầy cúng, đại diện các hộ dân đến cùng thống nhất ngày, địa điểm tổ chức và việc đóng góp của mỗi gia đình. Lễ cúng thường diễn ra vào buổi sáng. Không gian của nghi lễ có thể là khu ruộng đã gặt hoặc một khoảng sân rộng, cũng có khi là ngay trong nhà của một gia đình, trưởng thôn là người chuẩn bị, phân công người phục vụ, nấu nướng.
Vào ngày diễn ra lễ cầu an, từ sáng sớm mỗi gia đình đều cử người đến địa điểm tổ chức. Những người không tham gia trực tiếp thì nấu cơm, chuẩn bị đồ lễ. Thầy cúng và đội nghệ nhân múa thường có từ 10-14 người, bắt buộc phải mặc trang phục nam truyền thống của người Giáy. Những cô gái dù không tham gia vào lễ cúng nhưng họ cũng tự chuẩn bị trang phục truyền thống cho mình, sau khi lễ chính kết thúc là thời điểm họ thể hiện khả năng ca hát và múa những điệu múa truyền thống của dân tộc.
Khi chuẩn bị đã hoàn tất, tất cả dân làng tạm dừng mọi công việc tập trung tại khu vực tổ chức để cùng nhau tham gia vào lễ cúng. Thầy cúng đặt một tàu lá chuối lên vị trí cao làm mâm cúng. Mâm cúng quay về hướng Đông, trước mâm thầy cúng cắm vài cành cây làm ban thờ. Thầy cúng lấy những đạo cụ dùng trong phần múa kiếm đặt bên cạnh bàn thờ. Thầy cúng yêu cầu đội múa kiếm xếp thành một hàng sau lưng mình rồi thắp hương mời thần linh bốn phương về dự lễ.
Các vị thần được mời về tham gia lễ cúng gồm Thần Quản Thôn, thần Quản Nước, thần Thổ Địa, thần Trời. Sau khi thắp hương, thầy cúng rót 5 chén rượu trên mâm cúng. Mỗi lần đọc xong một bài cúng sẽ rót thêm một lần rượu với trình tự bài thứ nhất báo cáo thần linh về thành quả lao động của dân làng trong một năm qua, lý do tổ chức nghi lễ sắp diễn ra, những lễ vật dân làng dâng lên các thần và mời thần về dự lễ, mượn địa điểm thực hành nghi lễ.
Bài thứ hai dâng chén rượu cầu thần linh phù hộ an lành cho các thành viên trong đoàn múa kiếm, để lễ múa được diễn ra suôn sẻ. Bài thứ ba cầu cho bà con thôn bản được khỏe mạnh, may mắn, không gặp ốm đau bệnh tật. Bài thứ tư cầu xin thần linh phù hộ cho thôn bản mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa. Bài thứ năm cảm tạ các thần linh đã về dự và phù hộ cho con cháu dân bản, cáo tiễn các thần đi sau khi nghi lễ kết thúc. Phần cúng dâng lễ kéo dài chừng một tiếng.
Kết thúc bài cúng, thầy cúng gieo một quẻ và bấm đốt tay xem tốt xấu. Khi mọi việc thuận lợi, các thần linh cho phép tổ chức múa nghi lễ, thầy cúng sẽ đốt vàng hương hơ qua những đạo cụ dùng trong nghi lễ rồi lấy rùi trống viết tượng trưng những câu thần chú lên mặt trống sau đó gõ một hồi trống dài và gọi lần lượt các thành viên trong đội múa kiếm lên giao đạo cụ để thực hiện bài múa.
Đây là điệu múa mang tính tập thể, mô phỏng các thế võ cổ truyền của người Giáy xưa kia, mỗi thành viên sử dụng một loại đạo cụ mô phỏng các loại vũ khí khác nhau. Bài múa mang ý nghĩa thể hiện sức mạnh, sự uy dũng của người Giáy để tà ma nhìn thấy biết sợ, không dám đến quấy nhiễu cuộc sống của dân làng. Phần múa kiếm kéo dài khoảng 45 phút, kết thúc điệu múa, thầy cúng gõ một hồi trống dài, các thành viên của đội múa lần lượt mang đạo cụ về đặt bên cạnh ban thờ, sau đó lui xuống xếp thành một hàng ngang trước bàn thờ.
Thầy lấy bát nước có cành cây thạch thảo dùng nhành cây vẩy nước ra xung quanh và vẩy lên người các thành viên đội múa nghi lễ với ý nghĩa làm sạch, xua đuổi tà ma và những điều không may mắn. Sau đó thầy cúng cầm trống gõ một hồi dài, các thành viên trong đội múa chắp tay vái lạy, cảm tạ các thần linh.
Phần múa kiếm kết thúc, những thành viên trong bản cùng thể hiện những bài hát ca ngợi thần linh, cảm tạ Tổ tiên, hát đối đáp, giao duyên và những điệu múa truyền thống. Việc hát, múa chỉ dừng lại khi mặt trời đã sắp chính ngọ, cũng là lúc những người đàn ông được phân công phụ trách bếp núc đã chuẩn bị xong bữa trưa. Tất cả thành viên cùng nhau thu dọn mâm cúng, các đạo cụ đem về cất trong miếu hoặc dưới bàn thờ nhà thầy cúng, chờ đến lần tổ chức tiếp theo.
Dù được xem là một bữa ăn sau nghi lễ nhưng theo các thầy cúng cho biết đây là một phần quan trọng của buổi lễ. Tùy điều kiện có thể tổ chức to hay nhỏ nhưng bữa ăn phải có măng rừng, cá Chép ruộng, gà, lợn, xôi hoặc cơm nấu từ gạo của vụ vừa gặt.
Bữa cơm được tổ chức tại nhà thầy cúng, trưởng thôn hoặc ở một gia đình gần lễ cúng. Việc được chọn làm nơi tổ chức ăn cơm của cả bản sau buổi lễ luôn là niềm vinh dự của chủ nhà mà không phải nhà nào cũng có thể đáp ứng được. Ngôi nhà được chọn phải có đủ chỗ ngồi nên phải là ngôi nhà to, đẹp và có điều kiện.
Lễ cầu an của đồng bào Giáy là một tập quán xã hội giàu tính nhân văn, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, lòng biết ơn và tôn kính tổ tiên, là cầu nối tâm linh giữa đất trời và con người, thể hiện quyết tâm giữ gìn sự bình yên của bản làng, khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nghi lễ không chỉ phản ánh vai trò và địa vị của những người thầy cúng trong xã hội trước mà còn là bằng chứng thể hiện những yếu tố văn hóa, tín ngưỡng nguyên thủy sơ khai, niềm tin vào thế giới thần linh./.
Theo (Vietnam+)
https://www.vietnamplus.vn/len-ha-giang-du-le-cau-an-truyen-thong-doc-dao-cua-dan-toc-giay/789477.vnp