Bàn về bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc là vấn đề muôn thuở, nhưng cũng là vấn đề mang tính thời sự nóng hổi, bởi thực trạng nền văn hóa dân tộc đang có nguy cơ mai một và có nhiều vấn đề mà toàn xã hội cần quan tâm bên cạnh hiện tượng xâm thực văn hóa ngày càng gia tăng.
Trong thời kỳ đổi mới, chuyển đổi sang cơ chế thị trường và nhất là trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc bắt đầu nảy sinh những khó khăn, tiêu cực, thiếu lành mạnh. Cụ thể là xu hướng thương mại hóa nghệ thuật dân tộc đang lan ra trên khắp các sân khấu biểu diễn. Các loại hình nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo, cải lương, quan họ, dân ca kịch ngày càng lún sâu vào bế tắc, không có hoặc rất ít khán giả, nhất là khán giả trẻ. Các rạp hát dành cho nghệ thuật dân tộc phần lớn là vắng khách, "tối đèn". Ðể thu hút người xem, nhiều đơn vị nghệ thuật phải chuyển đổi phương thức xây dựng tiết mục, cụ thể là cải tiến, cách tân, làm mới sân khấu truyền thông, biến tuồng, chèo, cải lương thành kịch nói pha bài ca; âm nhạc hiện đại chiếm tỷ lệ áp đảo trong các dàn nhạc truyền thống. Chưa kể là hình thức trang trí, phục trang ngày càng xa với nguyên tắc cách điệu, ước lệ và tượng trưng mà các thế hệ nghệ nhân trước đây đã dày công sáng tạo và đúc kết thành đặc trưng, thi pháp nghệ thuật đặc sắc và độc đáo của dân tộc ta mà thế giới phải chú ý, khâm phục, ngợi ca.
Có những loại hình nghệ thuật đậm đặc chất dân gian như quan họ hết sức độc đáo, vốn đã có ở làng quê Kinh Bắc hàng trăm năm với lối hát giao duyên, đối đáp, trữ tình, với kỹ thuật hát xướng rất cao, không phải dùng nhạc đệm và cũng không bao giờ sử dụng kỹ thuật âm thanh phóng đại. Thế mà cũng theo xu thế hiện đại hóa chiều theo thị hiếu tầm thường kiểu nhạc trẻ, rồi trở thành "quan họ sân khấu" tức là lên sân khấu gỗ một mặt biểu diễn có hệ thống âm thanh phóng đại và có dàn nhạc đệm, kể cả nhạc điện tử. Dĩ nhiên, hình thức hiện đại hóa này lại hợp "gu" của khán giả trẻ, đồng thời thu nhập của nghệ sĩ cũng cao hơn rất nhiều so với phương thức biểu diễn dân gian trong sân đình, dưới bóng cây làng, hoặc trên những dòng sông quê êm đềm thơ mộng. Những cuộc biểu diễn quan họ kiểu tân nhạc đang diễn ra khắp mọi nơi, như vậy là đồng nghĩa với sự phá vỡ bản sắc dân gian, truyền thống, mặc cho những nhà nghiên cứu tâm huyết với nghệ thuật của cha ông "khản hơi" lên tiếng phê phán và kêu gọi phải bảo tồn truyền thống, phải giữ lấy bản sắc dân tộc. Nhưng gió cứ thổi, người cứ đi, đi càng xa, càng lạc hướng! Như vậy còn gì để UNESCO công nhân là di sản của nhân loại?
Hơn 20 năm cải tiến, cách tân, những người "cấp tiến" làm nghệ thuật dân tộc mới dần dần nhận ra mình đã đi lạc đường khi nhìn kỹ lại những sáng tác, biểu diễn của mình trở nên xa lạ với truyền thống, xa lạ với công chúng vốn rất yêu, rất thích và cũng rất hiểu nghệ thuật... truyền thống.
Chủ trương của Ðảng bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân gian truyền thống tuy có tác động tích cực vào hoạt động văn hóa dân tộc, nhưng đến nay xu hướng cách tân, làm mới nghệ thuật truyền thống vẫn còn nhiều lệch lạc từ nhận thức lý luận đến thực hành. Cụ thể là còn không ít cán bộ chưa hiểu rõ khái niệm nội dung bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa dân tộc. Từ nhận thức sai dẫn tới thực hành sai, chưa kể một bộ phận nghệ sĩ chẳng mấy quan tâm tới đường lối văn nghệ của Ðảng, mà chỉ biết làm theo nhận thức chủ quan của mình. Dĩ nhiên đã và sẽ dẫn tới hệ quả phá vỡ truyền thống như ta thấy, di tích cổ thành di tích mới, âm nhạc cổ thành âm nhạc mới, sân khấu truyền thống thành sân khấu hiện đại, thậm chí cực kỳ hiện đại như có những vở cải lương dàn cảnh như phim trường, huy động hàng trăm diễn viên, nhạc công tham gia. Trong khi, với sân khấu truyền thống, một vở như vậy chỉ cần hơn mười diễn viên tham gia, nhưng có thể sống trong lòng người xem hàng trăm năm. Cũng vì nhận thức sai về bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc mà đã có lúc rộ lệ việc dàn dựng hàng trăm "kiệt tác" sân khấu thế giới với kinh phí dự toán hàng trăm tỷ đồng, trong khi có nhiều đơn vị sân khấu dân tộc muốn phục hồi những vở truyền thống nhưng không có tiền, dù chỉ mất trên, dưới trăm triệu đồng một vở. Nhà hát tuồng Ðào Tấn ở Bình Ðịnh sau gần 35 năm hòa bình mà mới phục dựng được vài ba vở trong số gần 30 vở của danh nhân Ðào Tấn. Nhà hát nghệ thuật hát bội TP Hồ Chí Minh cũng đang "lực bất tòng tâm" nên cái vốn hát bội (tuồng) truyền thống ở Nam Bộ cứ dần dần biết mất. Rồi đến nhà hát truyền thống Khánh Hòa, nơi có đội ngũ nghệ sĩ hát bội có nghề, nắm vững nghề, nhưng việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống cũng đang gặp khó khăn về kinh phí, trong khi các nghệ sĩ cao niên nắm vững nghề ngày càng thưa dần vì tuổi đời, vì sức khỏe. Cụ thể là nhiều nghệ sĩ tài năng như: Chánh Ca Trạng, Võ Thị Líu, Lê Văn Hão, Mười Thông, Nguyễn Hữu Thành... đã lần lượt đi xa. Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh ở Ðà Nẵng và Ðoàn tuồng Thanh Hóa là hai đơn vị có nhiều cố gắng trong việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống, nhưng cũng đang gặp khó khăn về kinh phí cũng như lượng khán giả đến với sân khấu tuồng vẫn còn ít. Hiện tượng khán giả lạnh nhạt với tuồng rõ nhất là ở Hà Nội, nơi Nhà hát tuồng Trung ương đang làm chủ rạp Hồng Hà, một rạp diễn tuồng khang trang nhất trong toàn quốc. Ðiều này đặt ra cho chúng ta phải suy nghĩ về một phương thức bảo tồn và phát huy có tính khả thi hơn, không thể để thực trạng này kéo dài lâu hơn nữa.
Nhìn sang sân khấu chèo, ta thấy có phần khả quan hơn trong việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống. Nói chung là người xem vẫn còn đến với sân khấu chèo, dù không đông như ngày xưa. Tuy vậy, hiện tượng cải tiến, cách tân chèo cổ vẫn còn khá phổ biến trong những vở diễn mới, rõ nhất là trong những vở đề tài hiện đại. Ở sân khấu này, bản sắc chèo truyền thống thường bị mờ nhạt bởi sắc mầu đậm đặc của nghệ thuật kịch nói, hoặc ô-pê-ra. Nhiều khán giả than phiền rằng, đi xem tuồng, xem chèo mà không được nghe hát tuồng, chèo thì còn thú vị gì nữa!
Trước thực trạng nghệ thuật dân gian, truyền thống bị thương mại hóa, hoặc hiện đại hóa, "biến vừng ra ngô", một số đơn vị như Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và Phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam trong gần 10 năm qua đã cố gắng làm nhiệm vụ bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc bằng nhiều hình thức sinh động. Hội nghị hội thảo, làm công trình nghiên cứu, tổ chức biểu diễn, quảng bá nghệ thuật dân tộc và thực hiện "Dự án sân khấu học đường" (Trung tâm phối hợp Cục Nghệ thuật biểu diễn - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện). Việc đưa các loại hình nghệ thuật dân tộc như tuồng, chèo, cải lương, bài chòi, dân ca Nghệ Tĩnh, dân ca Bình-Trị-Thiên vào học đường, dạy học sinh phổ thông cả nước hiểu được, diễn được và yêu thích nghệ thuật dân tộc là một cách bảo tồn và phát huy hết sức có hiệu quả. Các học sinh trung học sau khi tham gia sân khấu học đường sẽ là những người bảo vệ, quảng bá nghệ thuật dân tộc, đồng thời cũng là những khán giả tích cực của các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống. Nhưng đây mới chỉ là một cách làm từ sáng kiến của một số ít người tâm huyết với nghệ thuật dân tộc, trước nguy cơ xâm nhập ngày càng nhiều của văn hóa nước ngoài và các hoạt động phi văn hóa, không lành mạnh, như chúng ta thấy đang diễn biến hết sức phức tạp.
Muốn bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc tốt hơn, hiệu quả hơn, bền vững hơn, theo chúng tôi, Ðảng và Nhà nước phải có một chính sách đầu tư hợp lý hơn, mạnh mẽ, thỏa đáng hơn, phải quan tâm, khuyến khích những cơ quan, những tổ chức, những cá nhân đang dốc lòng, dốc sức trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc; đồng thời phê phán, có biện pháp xử lý đối với những tổ chức và cá nhân không nhận thức đúng, làm tổn hại di sản văn hóa của cha ông, làm mờ nhạt bản sắc văn hóa dân tộc và hình ảnh của đất nước nghìn năm văn hiến.
Theo Giáo sư HOÀNG CHƯƠNG/Nhân Dân Điện Tử