Kỳ nghỉ hè sắp đến, nhiều gia đình, cơ quan, trường học sẽ tổ chức cho con em đi nghỉ mát, tắm biển. Khắp nơi các em học sinh cũng sẽ tự rủ nhau đi tắm mát ở sông, suối, ao, hồ... Nguy cơ xảy ra tai nạn đuối nước là rất cao.
Đuối nước là một trong những nguyên nhân dẫn đầu tử vong tại Hoa Kỳ. Ở nước ta tỷ lệ tử vong do đuối nước nói chung và trẻ em nói riêng cũng là một con số khá cao. Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tại Việt Nam đánh giá: đuối nước là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em. Theo Bộ Y tế: từ năm 2005-2006, số trẻ em tử vong do đuối nước là 7.250 trẻ em, tính trung bình mỗi ngày sẽ có hàng chục trẻ em bị chết đuối. Một vài thống kê cho biết đuối nước là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trẻ em chiếm 48,8%; tỷ lệ chết đuối ở trẻ em Việt Nam cao gấp 10 lần các nước phát triển; khoảng 70% trẻ chết đuối và suýt chết đuối ở độ tuổi dưới 15, trong đó nguy cơ chết đuối cao nhất là các em từ 5-9 tuổi; 53% các trường hợp đuối nước xảy ra khi trẻ em chơi gần nhà không có sự bảo vệ của người lớn và 17% trẻ bị tai nạn đang được trẻ khác trông nom; số trẻ em chết đuối năm 2008 là 329 em, tăng 5,8% so với năm 2007.
Triệu chứng khi bị đuối nước
Tai nạn do đuối nước có thể xảy ra trong các trường hợp: ngạt nước, những người không biết bơi ngã xuống nước, hoặc trẻ em ngã cắm đầu vào chậu nước hay bồn tắm; ngất đột ngột khi vừa tiếp xúc với nước; lặn sâu dưới nước khi hết hơi không ngoi lên kịp bị ngạt; bơi quá mệt, cơ thể mất nhiệt do nước lạnh, bị chuột rút (vọp bẻ) rồi ngất đi. Tùy theo mức độ nhẹ hay nặng, nạn nhân có biểu hiện như sau:
Ngạt nước, sau một thời gian dưới nước, nạn nhân hít phải nước, sặc nước, khó thở rồi ngừng thở sau đó tim ngừng đập. Da nạn nhân xanh tím hoặc nhợt nhạt, vớt lên khỏi nước thấy bọt hồng trào ra đầy mũi và miệng.
Choáng, sốc do ngạt nước: bị nhẹ thấy ớn lạnh, cảm giác co thắt ngực và bụng, buồn nôn, chóng mặt, nhức đầu, nôn mửa, nổi mề đay (do dị ứng với nước), mạch nhanh. Nếu tiến triển sang nặng thì nạn nhân xuất hiện các triệu chứng trụy mạch, ngất.
Ngất do bị ức chế thần kinh, nạn nhân chìm luôn, không giãy giụa, không kêu cứu được. Nhiều trường hợp vừa mới xuống nước, nạn nhân đã thấy chóng mặt, ù tai, da đỏ, ngứa nhưng không biết đó là dấu hiệu nguy hiểm vẫn tiếp tục ở dưới nước rồi bị ngất và chìm xuống.
Biểu hiện thường gặp là nạn nhân mất ý thức hay chỉ ý thức lơ mơ, hoặc tỉnh nhưng hoảng hốt, kêu đau đầu, đau ngực, buồn nôn và nôn. Khám thấy da tím tái hay nhợt nhạt; cơ máy giật; khó thở, thở nhanh và khò khè. Nếu có bọt hồng ở mũi, miệng là dấu hiệu nạn nhân bị phù phổi; nhịp tim nhanh, loạn nhịp, huyết áp hạ, ngừng tim; có khi bị hạ thân nhiệt.
Xét nghiệm nước tiểu thấy protein, hemoglobin và aceton niệu, tăng bạch cầu. PaO2 giảm, PaCO2 khi tăng khi giảm, pH máu giảm do nhiễm toan chuyển hóa. Chụp Xquang lồng ngực có thể thấy phù phổi hay viêm phổi.
Điều trị
Điều trị tại bệnh viện: chống suy hô hấp như sặc phổi, phù phổi cấp; chống tình trạng hạ thân nhiệt, co thắt phế quản, loạn nhịp tim, tụt huyết áp. Bồi phụ nước điện giải điều chỉnh thăng bằng kiềm toan. Chú ý xử lý mất nước ngoài tế bào, cô đặc máu... Cảnh giác phát hiện phù phổi cấp, hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển nên cần chụp phổi ngay và tiếp tục theo dõi tình trạng suy hô hấp, trụy mạch.
Phòng chống tai nạn đuối nước cho trẻ em
Để phòng chống tai nạn đuối nước cho trẻ em cần thực hiện các biện pháp: khi trẻ em đi học bằng ghe, thuyền bắt buộc phải có phao cứu sinh hoặc có người lớn đưa đi kèm. Trong trường học nên đưa vào chương trình dạy bơi lội cho học sinh đồng thời hướng dẫn cho học sinh kỹ thuật sơ cấp cứu để biết tự cứu sống lấy mình hoặc bạn khác khi bị đuối nước. Bể nước, cống rãnh, miệng giếng... phải có nắp đậy an toàn. Trẻ em tắm biển, tắm sông nên mặc áo phao và phải có cha mẹ, người lớn trông coi. Những nơi thường xảy ra tai nạn, cần phải thành lập đội cứu hộ và các phương tiện cần thiết để cấp cứu; tích cực tuyên truyền bằng cách in ấn cấp phát các tờ rơi đến từng hộ gia đình cảnh báo về tai nạn chết đuối. Đặt các biển báo nguy hiểm tại các bãi tắm biển, tắm sông...
Cấp cứu và xử lý người bị đuối nước
Tại nơi xảy ra tai nạn: cấp cứu ngay ở dưới nước, nắm tóc kéo đầu nạn nhân nhô lên khỏi mặt nước, tát mấy cái thật mạnh vào má nạn nhân để gây phản xạ hồi tỉnh và thở lại. Nhanh chóng quàng tay qua nách, hoặc kêu thêm người hỗ trợ đưa nạn nhân vào bờ. Cấp cứu tại chỗ là quan trọng nhất, quyết định sự sống còn của nạn nhân, nếu xử trí chậm, nạn nhân bị thiếu ôxy não rất khó cứu sống sau đó.
Khi đưa được nạn nhân lên bờ hay lên thuyền phải tiến hành ngay hô hấp nhân tạo, hà hơi thổi ngạt: khai thông đường hô hấp bằng cách đặt nạn nhân nằm ưỡn cổ nghiêng sang một bên, dùng gạc hay khăn vải móc đờm dãi, dị vật khỏi đường thở và miệng nạn nhân; đặt một khăn mùi soa hay miếng gạc qua miệng nạn nhân, dùng hai ngón tay cái và trỏ bịt mũi nạn nhân rồi thổi hơi trực tiếp vào miệng nạn nhân. Nếu ngừng tim (sờ mạch quay không có) phải ép tim ngoài lồng ngực. Dùng hai tay chồng lên nhau ép lên lồng ngực ngoài tim, tần số ép khoảng 100 lần/1 phút. Nếu một người cấp cứu thì thổi ngạt 2 - 3 hơi lại ép tim ngoài lồng ngực 10 - 15 nhịp. Nếu có hai người cấp cứu thì một người thổi ngạt, một người ép tim ngoài lồng ngực, làm kiên trì cho đến khi tim đập và thở trở lại. Khi tỉnh lại, nạn nhân sẽ nôn ra nước, nên phải để nạn nhân ở tư thế an toàn, kê gối dưới hai vai, nới rộng quần áo, phòng cho nạn nhân không bị ngạt trở lại vì sặc chất nôn. Chỉ bỏ cuộc khi đã hô hấp nhân tạo và ép tim được 2 tiếng mà không thấy nạn nhân phục hồi. Khi gặp trẻ đuối nước người ta thường vác dốc ngược trẻ trên vai, động tác dốc ngược nạn nhân chỉ có tác dụng khai thông vùng họng và miệng, vì vậy không nên thực hiện ở người lớn và không nên làm quá 1 phút ở trẻ em. Nếu sơ cứu có kết quả, nạn nhân thở lại, cử động giãy giụa, hay nạn nhân vẫn còn mê nhưng đã có mạch và nhịp thở thì gọi xe cấp cứu hay dùng mọi phương tiện sẵn có chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế có trang bị hồi sức cấp cứu. Quá trình vận chuyển vẫn phải tiếp tục cấp cứu và đắp giữ ấm cho nạn nhân.
Theo SK & ĐS