Người bị ong đốt có thể sốc và tử vong chỉ trong vòng 10 phút tới vài giờ. Nếu bệnh nhân không bị sốc nhưng bị trên 10 con ong đốt có thể bị nhiễm độc nặng, cần phải điều trị tích cực.
Do đó các trường hợp bị ong đốt cần xử trí cấp cứu rồi chuyển ngay tới bệnh viện mới mong cứu được bệnh nhân. Mùa hè, nhiều hoa nở, đàn ong hoạt động tích cực nên nguy cơ người bị ong đốt tăng lên, vì vậy chúng ta cần cảnh giác đề phòng ong đốt.
Ong nào hay đốt người?
Ong thuộc bộ cánh màng, các loại ong hay đốt người là: ong mật (Apidae), ong bầu (Bombidae), ong bắp cày, ong vò vẽ, ong vàng (Vespidae ). Riêng ong vàng có thể tự nhiên đốt người, còn các loại ong khác chỉ đốt người khi tổ ong bị quấy rối. Ong mật ngòi có hình răng cưa nên khi đốt, ngòi cắm vào da người, bị đứt ra, phần cơ quanh túi nọc tiếp tục co bóp để tống nọc độc vào cơ thể nạn nhân, chỉ sau 20 giây đã có tới 90% lượng nọc được bơm vào cơ thể nạn nhân. Các loại ong khác do ngòi không có hình răng cưa như ong mật nên khi đốt ngòi còn nguyên vẹn, nên ong có thể đốt nhiều lần.
Sau khi vào cơ thể, các chất trong nọc ong gây ra: phản ứng dị ứng, gây sốc phản vệ có thể làm nạn nhân tử vong nhanh chóng. Làm ngưng kết tiểu cầu và gây tắc mao mạch, tổn thương nhiều cơ quan. Nếu các triệu chứng xảy ra càng nhanh, nguy cơ tử vong càng cao, hầu hết tử vong trong giờ đầu. Những ngày sau, bệnh nhân có thể bị nhiễm độc toàn thân nặng, dễ tử vong nếu không được điều trị tích cực, do tan máu, rối loạn đông máu, viêm gan, tiêu cơ vân, suy thận cấp...
Biểu hiện khi bị ong đốt
Một người bị ong đốt có những biểu hiện: sốc phản vệ là phản ứng nặng của cơ thể nạn nhân xảy ra không phụ thuộc số lượng ong đốt, thay đổi từ nhẹ tới nặng và tử vong. Hầu hết trường hợp sốc phản vệ xảy ra trong vòng 15 phút đầu hoặc trong vòng 6 giờ đầu. Triệu chứng gồm: lúc đầu là ngứa mắt, đỏ mắt, nổi mề đay toàn thân, ho khan. Các triệu chứng nặng lên nhanh chóng với các biểu hiện: bó ngực, co thắt hầu họng, thở rít, khó thở, da tím tái, đau bụng, nôn, tiêu chảy, chóng mặt, rét run và sốt; tiếng rít thanh quản, hôn mê, đại tiểu tiện không tự chủ, đờm có bọt máu. Nạn nhân suy sụp rất nhanh và tiến tới suy hô hấp, trụy tim mạch rồi tử vong.
Nhiễm độc toàn thân trong trường hợp bị nhiều ong đốt (trên 10 con), triệu chứng về tiêu hoá nổi bật hơn: buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, đau đầu, sợ ánh sáng và ngất. Có thể có sốt, ngủ gà, co cứng cơ tự nhiên, phù nhưng có mề đay, co giật. Các triệu chứng này thường biến mất sau 48 giờ, nhưng có tổn thương nặng nề ở các cơ quan như: hoại tử gan; suy thận xuất hiện sau 1-2 ngày, do tan máu, tiêu cơ vân, nọc ong còn gây tổn thương ống thận, nếu không được điều trị sớm, tích cực, bệnh sẽ tiến triển thành suy thận cấp vô niệu, kéo dài có thể nhiều tuần đến hàng tháng; tan máu, giảm tiểu cầu, đông máu nội mạch rải rác; tiêu cơ vân ồ ạt khi số lượng vết đốt nhiều.
Xử lí cấp cứu
Sơ cứu tại cơ sở: giảm nọc độc bằng cách lấy ngòi còn lại (ong mật): dùng kẹp gắp, cần làm ngay trong vòng vài giây sau khi bị đốt. Băng ép chi bị đốt, nới 30 giây mỗi 3-5 phút. Không bóp nặn vết đốt vì dễ làm tổn thương nặng thêm. Sát khuẩn vết đốt bằng cồn iốt, ôxy già…, cho nạn nhân uống thuốc kháng histamin, bôi mỡ kháng histamin, corticoid tại vết đốt. Chuyển ngay nạn nhân đến bệnh viện.
Tại bệnh viện: Nếu nạn nhân không sốc cần bảo đảm hô hấp, giảm đau, truyền dịch, kháng histamin, corticoid, adrenalin 1/3mg tiêm dưới da.
Nếu nạn nhân bị sốc: tiêm tĩnh mạch methyl presnisolon 1 ống 40mg. Áp dụng phác đồ xử trí sốc phản vệ do Bộ Y tế đã ban hành: adrenalin 1/3-1mg tiêm dưới da, nhắc lại sau 15 phút cho đến khi huyết áp ổn định. Tiêm adrenalin tĩnh mạch nếu trụy mạch không đáp ứng với tiêm dưới da. Nguy cơ đe dọa tử vong: tiêm 1/3mg, nhắc lại mỗi 10 phút cho đến khi huyết áp tối đa trên 90mmHg thì chuyển sang truyền tĩnh mạch dung dịch đẳng trương, theo dõi huyết áp để điều chỉnh liều kịp thời. Thở ôxy. Khí dung có thể dùng ventolin 2,5mg, nhắc lại sau 5 phút nếu cần. Truyền dịch nâng huyết áp và dự phòng suy thận cấp do tiêu cơ vân. Có thể dùng natriclorua đẳng trương, nếu tụt huyết áp kéo dài có thể truyền các dung dịch cao phân tử. Tiêm phòng uốn ván dùng SAT 1500 đơn vị. Chống suy thận bằng lợi tiểu. Cân bằng nước điện giải.
Nọc ong độc như thế nào?
Nọc ong có các hợp chất gây độc cơ thể người là: melittin có nhiều trong nọc ong, chủ yếu gây đau, có đặc tính hoạt động trên bề mặt tế bào, gây tan máu và làm cho các tiểu cầu ngưng kết với nhau. Men phospholipase A2, sau khi melittin phá hủy màng tế bào, phospholipase A2 gây tan hồng cầu bằng cách tách rời các liên kết trên màng tế bào hồng cầu. Peptide làm thoái hoá các hạt của bạch cầu hạt ưa kiềm, giải phóng histamin. Men hyaluronidase vừa là kháng nguyên, vừa có tác dụng phân hủy acid hyaluronic của tổ chức liên kết, làm cho nọc ong dễ lan tràn trong cơ thể nạn nhân. Apamine là chất độc với thần kinh, tác dụng mạnh trên tủy sống, gây tăng kích thích, co thắt cơ, co giật. Các chất: histamin, serotonin, catecholamin, kinin: gây đau, gây viêm có tính chất hoạt mạch, gây các triệu chứng tại vết đốt, thúc đẩy sự hấp thu các kháng nguyên trong nọc ong. Các chất có hoạt tính tiêu fibrin, ức chế prothrombin và thromboplastin và nhiều kháng nguyên.
ThS. Bùi Thị Hoa
Theo SK & ĐS Online