Cập nhật: 14/05/2012 16:10:02 Article Rating
Xem cỡ chữ

   

 

 

TỈNH UỶ VĨNH PHÚC

*

Số 02- NQ/TU

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 


Vĩnh Yên, ngày 23 tháng 4 năm 2012

 

NGHỊ QUYẾT

CỦA BAN THƯỜNG VỤ TỈNH UỶ

Về tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài nguyên

trên địa bàn tỉnh đến năm 2015, định hướng đến năm 2020

 

                Tài nguyên đất, nước và khoáng sản là những tài nguyên vô cùng quý giá, trong đó tài nguyên đất là tư liệu sản xuất đặc biệt; các nguồn tài nguyên đất, nước, khoáng sản (trong Nghị quyết này viết là tài nguyên) là một trong những nguồn lực lớn và rất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, cũng như của quốc gia. Quản lý, sử dụng tài nguyên có vị trí quan trọng, hết sức nhạy cảm, phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, ổn định xã hội và đời sống của nhân dân trong tỉnh.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Chương trình công tác toàn khoá của BCH Đảng bộ tỉnh; Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Nghị quyết về tăng cường công tác quản lý, sử dụng tài nguyên trên địa bàn tỉnh đến năm 2015, định hướng đến năm 2020.

I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH.

Sau 15 năm tái lập tỉnh, phát huy truyền thống cách mạng, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế và thực hiện cơ chế mở cửa, năng động trong thu hút đầu tư; tỉnh ta đã đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện: Nền kinh tế của tỉnh phát triển nhanh ; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; giá trị sản xuất công nghiệp và thu ngân sách tăng nhanh, trở thành một trong những tỉnh đứng đầu vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và của cả nước; các lĩnh vực văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ; an ninh quốc phòng được giữ vững; chính trị, xã hội ổn định; đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao. Quản lý nhà nước, trong đó có quản lý về tài nguyên đạt được nhiều kết quả quan trọng, từng bước đi vào nền nếp; việc quản lý, sử dụng tài nguyên ngày càng có hiệu quả, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

1. Những kết quả đạt được

Ngay sau khi tái lập, tỉnh đã tập trung thiết lập cơ sở dữ liệu, đo đạc, xây dựng bản đồ địa chính, địa hình. Đến nay, đã lập bản đồ địa chính (tỷ lệ 1:1.000; 1:500) cho 6/9 huyện, thành, thị; bản đồ địa hình (tỷ lệ 1:5.000; 1:10.000) phủ trùm toàn tỉnh; đang triển khai lập bản đồ không gian 3 chiều toàn tỉnh và xây dựng Atlas tổng hợp. Quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 – 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 – 2015 đang được triển khai tích cực; 100% các xã đã hoàn thành quy hoạch xây dựng nông thôn mới; phân bổ quỹ đất đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp, đô thị và kết cấu hạ tầng; chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất cơ bản phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Công tác thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất được thực hiện cơ bản đúng luật. Việc lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và giải quyết đất dịch vụ được thực hiện khá tốt. Đến nay, 91,86% hộ gia đình, cá nhân và trên 4.200 tổ chức sử dụng đất đã được cấp GCN lần đầu; cơ bản tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và bức xúc về cấp đất dịch vụ. Tài chính đất đai và thị trường bất động sản bước đầu có những chuyển biến tích cực, đáp ứng một phần nhu cầu về đất ở, nhà ở cho nhân dân và đẩy mạnh tốc độ đô thị hóa trên địa bàn, tăng nguồn thu cho ngân sách, từng bước trở thành nguồn lực quan trọng của tỉnh.

Công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa chính sách của Nhà nước trên địa bàn tỉnh được đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, tỉnh đã ban hành nhiều thông tri, chỉ thị, quyết định, hướng dẫn để cụ thể hóa, phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh, tạo ra hành lang pháp lý và tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng đất đai như bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư, xác định giá đất; tích tụ ruộng đất, phát triển trang trại và các mô hình sản xuất tập trung, tạo quỹ đất sạch, phát huy tốt lợi thế để thu hút đầu tư.

Công tác điều tra, đánh giá trữ lượng nước mặt và nước ngầm được triển khai tích cực; đã thiết lập đầy đủ hồ sơ dữ liệu về nước, thành lập bản đồ địa chất thủy văn, xây dựng kế hoạch phòng chống lụt bão, hạn hán khắc phục thiên tai ứng phó với biến đổi khí hậu; công tác thu phí cấp phép, khai thác nước, xả nước vào nguồn nước dần đi vào nền nếp.

Công tác điều tra cơ bản về tài nguyên khoáng sản được chú trọng; tỉnh đã tập trung thăm dò, đánh giá trữ lượng các loại khoáng sản có tiềm năng khai thác như đá granit, đá xây dựng, cát, sỏi, sét đồi, than bùn, đất san lấp; thực hiện cấp phép khai thác khoáng sản hợp lý, hiệu quả.

Công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên được thực hiện thường xuyên, bảo đảm đúng thời gian, chất lượng. Công tác cải cách hành chính có nhiều đổi mới theo hướng nhanh, gọn, hiệu quả, minh bạch, dân chủ.

2. Hạn chế, yếu kém và nguyên nhân 

Công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng tài nguyên có nhiều hạn chế, chưa bao quát, thiếu tầm nhìn, chồng chéo, chưa dự báo và tính toán đầy đủ nhu cầu sử dụng đất của các ngành, địa phương, lĩnh vực; chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhất là quy hoạch sử dụng đất ở cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; việc thực hiện quy hoạch đạt kết quả thấp. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, nhất là về tài nguyên đất còn nhiều yếu kém; việc quản lý, sử dụng tài nguyên ở một số nơi còn lãng phí, hiệu quả không cao; tình trạng lấn chiếm, chuyển nhượng trái phép, chuyển mục đích sử dụng đất, xây dựng trái phép còn diễn ra ở nhiều nơi; việc thu hồi, cấp đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển nhượng đất đai, cấp GCN quyền sử dụng đất tại một số địa phương còn có những sai phạm. Việc cấp đất cho một số dự án còn chưa chặt chẽ nên một số dự án sử dụng đất chưa tiết kiệm, hiệu quả. Tài chính đất đai và thị trường bất động sản diễn biến phức tạp, khó kiểm soát; tình trạng đầu cơ về đất đai và bất động sản gắn liền với đất, đặc biệt ở đô thị đã đẩy giá đất lên cao, tạo ra những đặc quyền, đặc lợi; bồi thường giải phóng mặt bằng khó khăn, ách tắc, ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh phát triển của tỉnh.

Tình trạng khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai có chiều hướng gia tăng; việc chống đối, cản trở, tái lấn chiếm khi nhà nước thu hồi đất ngày một diễn biến phức tạp, một số nơi trở thành điểm nóng; tình trạng khiếu kiện đông người, kéo dài đã ảnh hưởng lớn đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Công tác quản lý tài nguyên nước chưa được coi trọng; tình trạng khoan, khai thác nước ngầm, xả nước thải vào nguồn nước tràn lan không được kiểm soát dẫn đến suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước ngày một gia tăng; các lưu vực sông và thủy vực ô nhiễm ngày càng cao.

Công tác cấp phép hoạt động khai thác khoáng sản còn bị động; công tác điều tra, quy hoạch, đánh giá trữ lượng chưa tốt; tình trạng khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản trái pháp luật diễn biến phức tạp nhưng chưa có giải pháp cụ thể để ngăn chặn, xử lý.

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành hiệu quả chưa cao; việc phát hiện các vi phạm về khai thác, sử dụng tài nguyên chưa kịp thời; xử lý thiếu kiên quyết, không đủ tính răn đe, ngăn chặn, càng làm tăng vi phạm trong quản lý, sử dụng tài nguyên; việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai chưa đáp ứng yêu cầu.

Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

Nguyên nhân khách quan: Hệ thống chính sách, pháp luật về tài nguyên, nhất là về đất đai chưa đồng bộ, thiếu thống nhất; thường xuyên sửa đổi, bổ sung; có khi chồng chéo, khó thực hiện; lĩnh vực tài nguyên là lĩnh vực rất nhạy cảm, phức tạp và liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân; cơ sở dữ liệu về tài nguyên lạc hậu, không đồng bộ, nhất là việc xác định nguồn gốc đất nhiều khi rất khó khăn.

Nguyên nhân chủ quan: Một số cấp uỷ đảng, chính quyền, nhất là cấp cơ sở thiếu kiểm tra, giám sát, thậm chí buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý, việc phát hiện, xử lý không kịp thời, thiếu kiên quyết, không đúng các quy định của pháp luật; hiện tượng đùn đẩy, né tránh còn diễn ra phổ biến.

Sự phối hợp giữa các tổ chức đảng, chính quyền, giữa ngành với cấp có nơi, có lúc, có việc chưa chặt chẽ, thiếu thống nhất, nhất là trong công tác thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, giao và cho thuê đất. Trách nhiệm xử lý, giải quyết vi phạm chưa rõ ràng.

Một số hộ gia đình, cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp nhận thức chưa đầy đủ về quyền, nghĩa vụ của mình trong việc sử dụng tài nguyên, thậm chí có trường hợp còn cố tình vi phạm các quy định của pháp luật.

Đội ngũ cán bộlàm công tác trong ngành tài nguyên từ tỉnh đến cơ sở còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nên việc tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền có việc chưa kịp thời và chất lượng không cao, cá biệt có việc chưa chính xác. Tinh thần, thái độ phục vụ của một bộ phận cán bộ, công chức, cán bộ địa chính chưa đáp ứng yêu cầu, thậm chí còn gây phiền hà, sách nhiễu; có biểu hiện vụ lợi trong giải quyết công việc.

Công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về quản lý, sử dụng tài nguyên chưa thường xuyên nên chưa tạo được sự chuyển biến căn bản trong nhận thức trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ của các tổ chức đảng, chính quyền và nhân dân.

Kinh phí đầu tư cho công tác quản lý nhà nước về tài nguyên mặc dù những năm gần đây đã được quan tâm, song chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra.

II. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ.

                1. Quan điểm.

- Tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản là những tài nguyên có hạn và ngày càng hao kiệt; là một trong những nguồn lực rất lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và đời sống của nhân dân.

- Quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên phải bảo đảm nguyên tắc: đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch, kế hoạch sử dụng tài nguyên của đất nước, của vùng và của tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá, đồng thời bảo đảm sự phát triển hài hoà, bền vững.

- Quản lý, sử dụng tài nguyên vừa là nhiệm vụ cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành, mọi tổ chức chính trị xã hội, người dân và của cả cộng đồng.

2. Mục tiêu:

- Tạo sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của các cấp uỷ đảng, chính quyền, cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, bền vững nguồn tài nguyên. Đặc biệt, nâng cao vai trò của các cấp uỷ đảng, chính quyền, tổ chức, đoàn thể, xã hội và nhân dân cùng thực hiện nghiêm và giám sát quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên ở địa phương.

- Hoàn thành việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng tài nguyên đất, nước, khoáng sản gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, lãnh thổ, quy hoạch vùng và đô thị theo quy định của pháp luật, có tính khả thi cao.

- Xây dựng và thiết lập đầy đủ cơ sở dữ liệu chi tiết đến tất cả xã, phường, thị trấn về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản. Mọi nguồn tài nguyên được quản lý theo hướng khoa học, chuyên nghiệp, phục vụ đắc lực cho các cấp ủy đảng, chính quyền trong công tác quản lý sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên của tỉnh.

- Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách phân cấp quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ cụ thể, rõ ràng đối với các cấp, các ngành. Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo cơ chế thông thoáng, đúng pháp luật để đẩy mạnh thu hút đầu tư cho quá trình phát triển;

- Ngăn chặn, hạn chế tiến tới chấm dứt tình trạng buông lỏng quản lý, sử dụng, khai thác các loại tài nguyên trái phép, không đúng với quy hoạch, kế hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Có các giải pháp hiệu quả để bảo vệ, khai thác tài nguyên hiện có. Xử lý nghiêm các vi phạm đã xảy ra. Tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đi đôi với xử lý kiên quyết, dứt điểm các hành vi quản lý, sử dụng tài nguyên không đúng mục đích và vi phạm pháp luật trên địa bàn. Phấn đấu giảm tỷ lệ khiếu nại, tố cáo về tài nguyên môi trường xuống dưới 60% tổng số đơn thư, khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh vào năm 2020; góp phần đưa công tác quản lý tài nguyên đi vào nền nếp theo quy định của pháp luật.

                3. Những nhiệm vụ chủ yếu

3.1. Về lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai:

- Tổ chức đo đạc, lập bản đồ địa chính, lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất. Đến năm 2015, 100% các xã, phường, thị trấn trong tỉnh được đo đạc, lập bản đồ địa chính dạng số tỷ lệ 1:500, 1:1.000 đối với đất ở, đất nông nghiệp và tỷ lệ 1:2000 đối với đất lâm nghiệp. Thường xuyên cập nhật, chỉnh lý theo quy định. Hoàn thành việc đăng ký ban đầu cho 100% số thửa đất gắn với tài sản trên đất đã được đo đạc lập hồ sơ địa chính dạng số vào năm 2015.

- Xây dựng hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất gắn liền với phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Sớm hoàn thành quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 – 2020 và Kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2015. Hoàn thiện các quy hoạch xây dựng chi tiết phân khu chức năng đô thị tỷ lệ 1:2.000, quy hoạch vùng và quy hoạch các chuyên ngành giao thông, thuỷ lợi, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp- làng nghề, dịch vụ du lịch, văn hóa, thể thao ở tất cả các địa phương. Thường xuyên rà soát, điều chỉnh, bổ sung kịp thời các quy hoạch để tạo sự đồng bộ, thống nhất, phù hợp giữa các quy hoạch với quy hoạch sử dụng đất, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Tổ chức quản lý, sử dụng tài nguyên theo đúng quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt.

- Thực hiện tốt chính sách tài chính đất đai và đẩy mạnh kinh tế hóa đất đai; xây dựng thị trường bất  động sản lành mạnh.

Tiếp tục nghiên cứu, rà soát chính sách, pháp luật đất đai để đề xuất, bổ sung cụ thể hóa trên địa bàn tỉnh những cơ chế, chính sách tài chính đất đai nhằm phát huy hiệu quả cao nhất của nguồn lực đất đai cho quá trình đầu tư phát triển; xây dựng giá đất hằng năm sát với giá thị trường. Đẩy mạnh công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, tạo quỹ đất sạch; nâng cao chỉ số cạnh tranh trong thu hút nguồn lực đầu tư của tỉnh. Tiếp tục duy trì nguồn thu từ đất tăng 20 – 30%/ năm.

Rà soát cụ thể hóa lộ trình phát triển đô thị đảm bảo cân đối giữa cung và cầu, từng bước đưa thị trường bất động sản hoạt động lành mạnh, đúng hướng góp phần đảm bảo an sinh xã hội, đáp ứng nhu cầu về đất ở, nhà ở trên địa bàn tỉnh, đẩy lùi tiêu cực, lãng phí, tham nhũng trong quản lý đất đai.

3.2. Lĩnh vực tài nguyên nước

- Đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá tài nguyên nước mặt và nước ngầm để từ đó xây dựng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ, quản lý, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững;

- Rà soát, đánh giá trữ lượng và chất lượng các hồ chứa nước hiện có để có kế hoạch mở rộng, nạo vét nâng công suất chứa, đồng thời tăng cường công tác bảo vệ, chống lấn chiếm, suy thoái, ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước, nhất là Đầm Vạc, sông Phan, sông Cà Lồ và các hồ có trữ lượng nước lớn trên địa bàn tỉnh. Chủ động lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng mới các hồ điều hòa hạn chế lũ lụt và nâng cao năng lực cấp nước đáp ứng  nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Chú trọng các vùng đô thị tập trung, vùng dễ bị tổn thương do thiên tai, lũ lụt, hạn hán.

- Tăng cường năng lực quản lý các lưu vực sông Hồng, sông Lô, sông Phó Đáy, sông Phan; chú trọng các biện pháp cắm mốc hành lang chỉ giới, nạo vét  khơi thông dòng chảy, xây kè để hạn chế lấn chiếm thay đổi dòng chảy, gây sạt lở và ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước. Chủ động phòng chống khắc phục thiên tai hạn hán, lũ lụt và biến đổi khí hậu.

- Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hoá chính sách quản lý, sử dụng tài nguyên nước phù hợp với điều kiên thực tế của tỉnh. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật gắn với thanh tra, kiểm tra, giám sát để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân. Phát hiện xử lý kịp thời những hành vi vi phạm trong quản lý sử dụng nguồn nước.

- Xây dựng mạng quan trắc tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh nhằm nghiên cứu diễn biến, động thái nước một cách đầy đủ, chính xác về trữ lượng, chất lượng nước, từ đó dự báo kịp thời khả năng khai thác và nguy cơ ô nhiễm, cạn kiệt để có những giải pháp đảm bảo an ninh nguồn nước.

- Hạn chế tối đa tình trạng khai thác nước ngầm, rà soát đánh giá và xây dựng kế hoạch trám lấp giếng khoan. Phấn đấu đến năm 2020 phần lớn việc cung cấp nước sạch được sử dụng từ nước mặt sông Lô, sông Hồng và hệ thống hồ, đập trong tỉnh.

 

 

                3.3. Lĩnh vực tài nguyên khoáng sản:

- Hoàn thành công tác điều tra, khoanh vùng địa chất khoáng sản và lập bản đồ cơ sở dữ liệu địa chất khoáng sản tỷ lệ lớn 1:10.000 - 1/25.000 gắn với quy hoạch thăm dò khai thác, sử dụng các loại khoáng sản, vật liệu xây dựng: cát, đá, sỏi, sét, đất san lấp, caolin - fenpat xong trong năm 2012. Đồng thời, từng bước thăm dò đánh giá trữ lượng theo quy hoạch được duyệt, chuyển hình thức từ cấp phép khai thác sang đấu thầu khai thác nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế tài nguyên khoáng sản.

- Tập trung thanh tra, kiểm tra rà soát tình hình chấp hành pháp luật trong khai thác khoáng sản trên địa bàn nhằm chấn chỉnh xử lý các hành vi vi phạm trong quản lý sử dụng khoáng sản trên địa bàn tỉnh.

- Đẩy mạnh quy hoạch, công khai quy hoạch các mỏ khoáng sản nói chung và đất san lấp nói riêng để làm cơ sở cho việc cấp phép khai thác và tăng cường sự giám sát của cấp ủy đảng, chính quyền, nhân dân trong việc khai thác khoáng sản trên địa bàn. Trước mắt, tập trung đáp ứng đầy đủ nhu cầu đất san lấp cho các công trình trên địa bàn tỉnh. Thực hiện khoanh định các vùng cấm, hạn chế trong khai thác khoáng sản.

- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý tài nguyên khoáng sản trên địa bàn. Trong đó, quan tâm đến lợi ích và môi trường ở những địa phương có khoáng sản khai thác. Tăng cường công tác giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm cũng như vai trò giám sát, quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản đối với các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân trong tỉnh.

- Tăng cường công tác nghiên cứu, phòng chống có hiệu quả các tai biến địa chất, tình trạng lún sụt, thảm họa môi trường do tác động của khai thác khoáng sản.

    III. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

  1. Thực hiện mạnh việc phân cấp, phân quyền, phân trách nhiệm cho các cấp, các ngành trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên trên địa bàn tỉnh. Trong đó, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền, đặc biệt xác định rõ vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu các cấp uỷ đảng, chính quyền trong công tác quản lý, sử dụng tài nguyên tại địa phương. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát cấp uỷ, chính quyền trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý, sử dụng tài nguyên; xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền nếu để xảy ra các vi phạm tại địa phương mình quản lý. Gắn công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo quản lý, sử dụng tài nguyên với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá X và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá XI.

2. Rà soát, xây dựng, hoàn thiện, cụ thể hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài nguyên phù hợp với tình hình thực tế trên địa bàn tỉnh và các quy định hiện hành của pháp luật. Kiến nghị, đề xuất với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương sửa đổi, điều chỉnh, thay thế những nội dung còn bất cập, chồng chéo, chưa thống nhất, tính khả thi không cao trong Luật Đất đai, Nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai. Tổ chức rà soát toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành về quản lý, sử dụng tài nguyên; bãi bỏ những quy định không còn phù hợp. Tiếp tục nghiên cứu thể chế hóa chủ trương, chính sách để sớm đưa nguồn lực tài nguyên thật sự trở thành động lực chính cho phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý, sử dụng tài nguyên với nội dung thiết thực, hình thức phù hợp đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh, làm chuyển biến mạnh mẽ ý thức tuân thủ pháp luật của toàn xã hội.

Tuyên truyền, phổ biến để mọi tổ chức và người dân hiểu biết và nhận thức đầy đủ về trình tự, thủ tục hành chính liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng tài nguyên; về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế,... quyền sử dụng đất; về thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng đất; về thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng; về khiếu nại, tố cáo,... Từ đó, tự giác không vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý, sử dụng, khai thác, bảo vệ tài nguyên.  

4. Tăng cường công tác lập, công bố, công khai và tổ chức thực hiện quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất.

Thực hiện đầy đủ các thủ tục, các bước để hoàn thiện Quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011 – 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 – 2015 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Trong đó, dự báo và tính toán đầy đủ nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực; nhất là một số ngành, lĩnh vực có tốc độ phát triển nhanh như đất cơ sở sản xuất kinh doanh, đất phát triển các khu đô thị mới, đất xây dựng kết cấu hạ tầng; đặc biệt lưu ý đến việc giữ đất trồng cây hằng năm, nhất là đất trồng lúa. Sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt, cần công bố, công khai quy hoạch, kế hoạch theo đúng quy định hiện hành đến các tổ chức, cá nhân; mở rộng công khai, dân chủ trong quá trình quản lý tài nguyên, tạo điều kiện để cộng đồng, cán bộ và nhân dân được tham gia giám sát quá trình quản lý sử dụng tài nguyên ở địa phương.

 Tổ chức quản lý việc sử dụng tài nguyên theo đúng quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt. Đẩy nhanh thực hiện các quy hoạch chi tiết như quy hoạch vùng tỉnh, quy hoạch đô thị Vĩnh Phúc, quy hoạch các phân khu, quy hoạch các lĩnh vực, ngành và địa điểm thực hiện các dự án. Hạn chế tối đa, tiến tới kiên quyết không bố trí các dự án không đúng với quy hoạch chung, làm phá vỡ quy hoạch. Hàng năm, tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, tạo sự đồng bộ, thống nhất, hoàn chỉnh trong thực hiện quy hoạch. Xác định rõ mốc giới và diện tích của các vùng trồng lúa, quản lý quỹ đất trồng lúa theo quy định của Chính phủ .

 5. Chỉ đạo tiến hành rà soát, đánh giá, phân loại toàn bộ các vụ vi phạm về quản lý và sử dụng tài nguyên trên địa bàn tỉnh; xác định trách nhiệm, biện pháp xử lý. Đồng thời, tiến hành rà soát các dự án về phát triển đô thị, dịch vụ, công nghiệp, cụm công nghiệp, nhất là các dự án sử dụng diện tích đất lớn trên địa bàn tỉnh. Đối với các dự án triển khai không hiệu quả, chậm triển khai và sử dụng lãng phí đất, cần có biện pháp cụ thể để thu hồi. Hằng năm. Có báo cáo đánh giá kịp thời.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Làm tốt công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, chủ động quỹ đất để thu hút các nguồn lực đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Thực hiện kịp thời, đầy đủ các chính sách về bồi thường giải phóng mặt bằng; bảo đảm hài hoà các lợi ích: Nhà nước, người dân có đất phải thu hồi, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Thực hiện tốt việc tái định cư cho các hộ phải di dời; giải quyết dứt điểm những vướng mắc, khó khăn về giao đất dịch vụ cho các hộ có đất phải thu hồi. Việc bố trí diện tích đất cho các dự án phải tuân theo nguyên tắc: đúng quy hoạch, sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả và bền vững.

Đẩy nhanh tiến độ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cho các tổ chức, cá nhân. Thực hiện tốt việc chuyển quyền sử dụng đất, chuyển nhượng, tách thửa, hợp thửa đất. Nghiêm cấm những hành vi gây phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực trong công tác này.

Chấn chỉnh công tác khai thác tài nguyên; xử lý nghiêm các tập thể, cá nhân vi phạm về khai thác tài nguyên; những hành vi làm biến dạng địa hình, làm suy giảm chất lượng đất, gây ô nhiễm môi trường.

6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tài nguyên; xử lý vi phạm hành chính. Trong thanh tra, kiểm tra, giám sát, tập trung vào các lĩnh vực nổi cộm, bức xúc, dễ phát sinh tiêu cực như việc sử dụng đất của các doanh nghiệp; thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai; lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đặc biệt là các hành vi lấn chiếm, chuyển mục đích sử dụng, xây dựng trái phép. Xử lý dứt điểm những vi phạm trong quản lý đất đai trước đây, ngăn chặn tiến tới chấm dứt tình trạng vi phạm mới xảy ra gây bức xúc trong dư luận xã hội, Đẩy mạnh công tác giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo; tập trung giải quyết dứt điểm các đơn, thư tồn đọng và giải quyết kịp thời các đơn, thư phát sinh thuộc thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật để hạn chế thấp nhất tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp; không để xảy ra các điểm nóng về khiếu kiện.

7. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nhất là các thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên. Tiến hành sắp xếp bộ máy tổ chức của ngành Tài nguyên và Môi trường theo hướng tinh gọn, hiệu quả, tránh chồng chéo. Tăng kinh phí đầu tư cho công tác quản lý tài nguyên trên địa bàn tỉnh. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ; giáo dục đạo đức, lối sống, phong cách làm việc; xây dựng quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức, cán bộ địa chính trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý tài nguyên, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến trong công tác xây dựng hệ thống thông tin tài nguyên từ tỉnh đến cơ sở theo hướng hiện đại, từng bước cập nhật, chỉnh lý, trao đổi thông tin từ tỉnh đến cơ sở qua mạng internet gắn với cải cách thủ tục hành chính, nâng cao ý thức phục vụ nhân dân.

8. Tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành trong công tác quản lý tài nguyên; nhất là trong thanh tra, kiểm tra, gắn với sự giám sát của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân để phát hiện, xử lý kịp thời, kiên quyết, đúng pháp luật các hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân trong quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên trên địa bàn. Ban hành các quy chế, quy định về sự phối hợp, phân cấp quản lý, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý tài nguyên.

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Giao Ban Cán sự Đảng Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án, dự án cụ thể để tổ chức thực hiện Nghị quyết. Thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị quyết; trưởng ban là lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh; thành viên là lãnh đạo các sở, ban, ngành có liên quan đến quản lý tài nguyên; cơ quan thường trực là Sở Tài nguyên và Môi trường. Ban chỉ đạo có trách nhiệm xây dựng kế hoạch triển khai Nghị quyết hiệu quả, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đánh giá, sơ kết, tổng kết hằng năm để rút kinh nghiệm.

2. Các huyện, thành, thị uỷ, đảng uỷ trực thuộc căn cứ Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng chương trình hành động, đề án quản lý tài nguyên trên địa bàn; làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của tỉnh về quản lý và bảo vệ tài nguyên, đặc biệt là nêu cao vai trò của cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở, của cộng đồng trong việc quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên. Mỗi cấp ủy phải coi đây là một trong những nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên của cấp ủy, là tiêu chí để xem xét, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy mình.

3. Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh chỉ đạo Hội đồng nhân dân các cấp tổ chức rà soát, điều chỉnh, ban hành các Nghị quyết về quản lý tài nguyên theo đúng quy định của Nhà nước và phù hợp với điều kiện của tỉnh. Thường xuyên giám sát việc thực hiện nhiệm vụ quản lý tài nguyên trên địa bàn tỉnh.

4. Các Ban xây dựng Đảng căn cứ chức năng, nhiệm vụ xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết có hiệu quả. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ xây dựng kế hoạch học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết đến chi bộ đảng và đảng viên; chỉ đạo các cơ quan thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình của tỉnh có trách nhiệm thường xuyên phổ biến, tuyên truyền nội dung Nghị quyết đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trên các phương tiện thông tin đại chúng.

5. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức hội căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình, phối hợp với các cấp, các ngành tăng cường giám sát việc thực hiện Nghị quyết trên địa bàn tỉnh và đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn hội viên, đoàn viên và vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy.

6. Văn phòng Tỉnh uỷ giúp Ban Thường vụ Tỉnh ủy đôn đốc, theo dõi, tổng hợp việc thực hiện Nghị quyết; báo cáo kết quả với Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.

Nghị quyết này được phổ biến đến chi bộ.

 

Nơi nhận:                                  

- Bộ Chính trị (b/c);

- Ban Bí thư TW (b/c);

- Các ban xây dựng Đảng và Văn phòng TW Đảng;

- Thường trực HĐND, UBND tỉnh;

- Các ban xây dựng Đảng; huyện, thành, thị uỷ; Đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ;

- Các BCS Đảng, Đảng đoàn;

- Các sở, ban, ngành, đoàn thể;

- Các đồng chí Tỉnh uỷ viên;

- CPVPTU, CVTH, CVNC;                                    

- Lưu VPTU.                        

T/M BAN THƯỜNG VỤ

BÍ THƯ

 

 

(Đã ký)

 

 

 

Phạm Văn Vọng

 

      

 

 

Tệp đính kèm