Cập nhật: 11/09/2016 10:16:00 Article Rating
Xem cỡ chữ

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), số nam giới mắc bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt (TTL) ở tuổi 60 chiếm 59%, ở tuổi 70 chiếm 76,9%,trên 80 tuổi chiếm 90%. Hiện nay tuổi thọ dân số ngày càng cao cũng là một trong những nguyên nhân khiến tỉ lệ nam giới mắc bệnh phì đại lành tính TTL tăng theo.

TTL là cơ quan sinh dục nam chịu ảnh hưởng của nội tiết tố sinh dục nam, testosterone. TTL tăng kích thước dần do ảnh hưởng của testosterone từ lúc nam giới bước vào độ tuổi dậy thì. Bình thường TTL nam giới trưởng thành nặng khoảng 20g, ổn định đến năm 40 tuổi. Tuy nhiên tỉ lệ nam giới mắc bệnh phì đại lành tính TTL luôn rất cao khi họ bước qua tuổi trung niên (TTL phì đại nặng từ 30g đến hàng trăm gam).

Triệu chứng của phì đại lành tính TTL: đi tiểu không hết, tiểu ngắt quãng, tia nước tiểu yếu, tiểu phải gắng sức, đi tiểu nhiều lần... Bệnh làm ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân, nhất là việc tiểu đêm khiến bệnh nhân không có giấc ngủ ngon. Điều trị gồm 2 phương pháp:

Phương pháp nội khoa

Được chỉ định khi bệnh chưa gây biến chứng, Việc điều trị dựa vào sử dụng thuốc và theo dõi tiến triển của bệnh. Bao gồm các thuốc sau:

- Các thuốc nội tiết: đối kháng GnRH (Nafarelin, Leuprolide, Buserelin), kháng thụ thể Androgen (Flutamide, Casodex, Zanoterone), ức chế 5 alpha-reductase (Finasteride, Epristeride), các thuốc từ Progesteron (Megesterol acetate, Hydroxy progesterone, Chlormadinine acetate, Cyproterone acetate), thuốc kháng a-adrenergic (Alfuzosin, Terazosin, Doxazosin, Tamsulosin)

- Các thuốc chiết xuất từ cây cỏ: một số được chiết xuất từ rễ, lá, hạt, một số được kết hợp bởi hai hoặc nhiều cây khác nhau như: Serenoa repens (cỏ lùn châu Mỹ), Hydroxis rooperi (cỏ sao Nam Phi), Pygeum africanum (mận châu Phi), Urtica clioica et urens (tầm na gai), Secale cereale (phấn lúa mạch), Cucurbita pepo (hạt bí).

- Các thuốc không phải chiết xuất từ cây cỏ: Mepatricin là một chất polyene bán tổng hợp được phân lập từ chủng Streptomyces.

Phương pháp ngoại khoa

Áp dụng khi điều trị nội khoa thất bại hoặc khi bệnh đã gây biến chứng. Có nhiều phương pháp nhưng chủ yếu là cắt đốt nội soi qua niệu đạo hoặc phẫu thuật mổ bóc u.

Cắt đốt phì đại lành tính TTL nội soi qua  niệu đạo. Phương pháp này đến nay vẫn được xem là “tiêu chuẩn vàng” trong điều trị bệnh. Ứng dụng cho bệnh ở giai đoạn 2, u  60 - 70g.

Bệnh nhân được gây tê tủy sống, hoặc ngoài màng cứng hoặc gây mê toàn thân. Qua dụng cụ nội soi, cắt đốt u xơ bằng lưỡi dao điện cho đén lớp vỏ. Các biến chứng có thể xảy ra như: thương tổn vỏ TTL và thủng, thương tổn lỗ niệu quản, thương tổn cơ thắt ngoài dẫn đến đái không tự chủ, chảy máu (hay xảy ra, đáng sợ nhất, u xơ càng to thì càng dễ chảy máu), viêm tinh hoàn - mào tinh hoàn, hẹp niệu đạo, bất lực, áp-xe quanh bàng quang.

Một số ưu điểm của phương pháp này: không có đường mổ nên cảm giác về mặt thẩm mỹ và tâm lý tốt, sau mổ nhẹ nhàng do ít đau, nhanh lấy lại vận động do đó tránh được các biến chứng do nằm lâu, thời gian nằm viện ngắn, chóng đi tiểu theo đường tự nhiên.

Phẫu thuật mở. Áp dụng khi u xơ có trọng lượng > 70g, hoặc có biến chứng sỏi bàng quang hoặc túi thừa bàng quang. Có các biến chứng hay gặp như: chảy máu, nhiễm khuẩn, hẹp cổ bàng quang, đái không tự chủ, phóng tinh ngược dòng.

Cắt u xơ tiền liệt tuyến bằng laser. Laser được sử dụng trong điềutrị bệnh từ nặm 1986. Năng lượng được dẫn bằng sợi và có thể được thay đổi để cho phép cầm máu hoặc làm bốc hơi một ít và tùy thuộc vào sự thay đổi nhiệt từ 60 - 6500C để có hiệu quả thương tổn và thường xuyên. Việc làm bốc hơi phụ thuộc vào nhiệt độ > 1.0000C và làm mô bị mất nước. Ngoài ra, người ta sử dụng laser để đốt vào tổ chức kẽ của u xơ tiền liệt tuyến. Sử dụng các sợi dẫn năng lượng đưa sâu vào trong tổ chức u xơ, sau đó đốt. Các thương tổn hoại tử bị đốt ở bêntrong u xơ tiền liệt tuyến sẽ tạo nên tình trạng teo và thoái hóa thứ phát thùy của u xơ.

Làm bốc hơi nước trong u xơ tiền liệt tuyến. Phương pháp này được áp dụng trong ngành tiết niệu năm 1994, từ đó đến nay được áp dụng rộng rãi hơn việc làm bốc hơi đơn thuần và được tạo nên khi năng lượng điện mạnh được tập trung vào lưỡi dao cắt sử dụng trong cắt đốt nội soi u xơ tiền liệt tuyến qua niệu đạo. Vùng tiếp xúc mỏng của dao cắt sẽ làm bốc hơi nước mô ở nhát cắt của nó và lớp mỡ bên dưới cũng sẽ được tách rời ra khỏi u xơ tiền liệt tuyến. Lưỡi dao cắt này đồng thời cũng đốt bằng cách sử dụng dòng điện để đốt và tạo nên sự làm khô mô và cầm máu.

Ưu điểm của phương pháp: kỹ thuật tương tự kỹ thuật cắt đốt u xơ tiền liệt tuyến qua niệu đạo, an toàn vì nguy cơ chảy máu và thủng rất thấp, chi phí thấp vì hầu như không cần phải rửa liên tục sau mổ.

Nhược điểm của phương pháp: áp dụng với u nhỏ, <50g, thời gian phẫu thuật dài, không lấy được mảnh cắt để làm giải phẫu bệnh.

Điều trị bằng áp nhiệt. Điều trị bằng nhiệt dựa vào việc sử dụng nhiệt do vi sóng có bước sóng 915 - 1.296 MHz phát ra từ một anten đặt bên trong niệu đạo. Sự phá hủy mô do tình trạng hoại tử cầm máu gây nên bởi nhiệt ở vùng bị đông > 44oC. Ưu điểm của phương pháp này là có thể điều trị cho bệnh nhân ngoại trú.

Tiêu hủy u xơ bằng kim qua đường niệu đạo (TUNA). Ở phương pháp này, năng lượng tần số sóng vô tuyến được sử dụng để tạo nên những thương tổn hoại tử bên trong tiền liệt tuyến ở nhiệt độ khoảng 1.0000C. Điều trị được tiến hành thường không cần gây mê toàn thân, nên có thể áp dụng cho bệnh nhân ngoại trú.

Đặt ống nong niệu đạo tiền liệt tuyến (stent). Trong những năm gần đây, nhiều thầy thuốc đã sử dụng ống nong niệu đạo trong điều trị u xơ tiền liệt tuyến. Có nhiều loại ống nong khác nhau như ống nong tự tiêu, ống nong đặt tạm thời, ống nong đặt vĩnh viễn. Ống nong được đặt vào niệu đạo tiền liệt tuyến với sự phối hợp vô cảm tại chỗ nhằm mục đích giải quyết tình trạng tắc nghẽn đường tiểu.

Nút động mạch tiền liệt tuyến (PAE). Phương pháp này ban đầu chủ yếu được dùng để kiểm soát chảy máu sau phẫu thuật hoặc sinh thiết tiền liệt tuyến. Sau đó bệnh nhân ngừng chảy máu và trọng lượng tiền liệt tuyến giảm. Từ đó phương pháp này được áp dụng để điều trị u xơ tiền liệt tuyến. Đây là một tiến bộ của can thiệp mạch máu trên thế giới được thực hiện ở nhiều nước trong khoảng 20 năm nay. Hiện đã có rất nhiều nước trên thế giới áp dụng thành công phương pháp này như: Mỹ, Trung Quốc, Ý… Tại Việt Nam có 3 bệnh viện đã áp dụng thành công phương pháp này là BV. Bạch Mai, BV. Đại học Y Hà nội và BV. Hữu nghị Hà Nội.

Để có thể thực hiện một ca nút động mạch tiền liệt tuyến, bệnh nhân sẽ được khám lâm sàng như: thăm trực tràng, siêu âm ổ bụng, trực tràng, chụp MRI. Chụp MRI xác định được bản đồ cấp máu cho tiền liệt tuyến là chìa khóa thành công của kỹ thuật.

 

Thăm khám TTL qua đường hậu môn

Sau khi tiến hành khám và đánh giá tình trạng bệnh của bệnh nhân có thể tiến hành nút động mạch tiền liệt tuyến được hay không, vì những trường hợp mạch máu quá xơ vữa ngoằn ngoèo thì thủ thuật cũng khó thành công, thầy thuốc cũng sẽ tiến hành thăm dò và loại trừ các bệnh khác có cùng triệu chứng đường tiết niệu như viêm bàng quang, sỏi bàng quang, viêm đường tiết niệu…

Dưới hướng dẫn của chụp mạch, thầy thuốc sẽ luồn ống thông vào từng động mạch chậu trong để chụp, rồi dùng ống thông cỡ nhỏ đi vào từng nhánh cấp máu cho tiền liệt tuyến. Tiến hành kiểm tra chụp nếu đúng vị trí, các thầy thuốc sẽ bơm các hạt vi cầu vào để nút động mạch cấp máu cho tiền liệt tuyến.

 

Ống nong niệu đạo TTL

Đây là phương pháp mới, có nhiều ưu điểm như: ít chảy máu, rút ngắn thời gian điều trị, không cần lưu ống thông bàng quang lâu, không mất chức năng phóng tinh, không xuất tinh ngược, không hẹp niệu đạo, không giới hạn về trọng lượng tiền liệt tuyến.

Một số phương pháp khác

- Điều trị bằng nhiệt từ nước nóng.

- Điều trị bằng đông lạnh.

- Sử dụng siêu âm tập trung cường độ cao.

BS. NGÔ VĂN TUẤN

Theo suckhoedoisong.vn

Tệp đính kèm